DƯỠNG
TÂM GIA PHÁP CỦA VÕ CỔ TRUYỀN NHẤT
NAM VIỆT NAM VỚI GIÁC NGỘ CỦA PHẬT GIÁO
NAM VIỆT NAM VỚI GIÁC NGỘ CỦA PHẬT GIÁO
Lời giới thiệu
Có rất nhiều cách thức để nhận thức về Vũ
Trụ quanh ta như thám hiểm bằng tàu vũ trụ, theo dõi qua kính viễn vọng, tìm hiểu
lịch sử trái đất và bầu trời. Nhưng những phương pháp đó chỉ thấy được một phần
rất nhỏ của thiên hà Ngân hà Trái đất, còn gần 200 trăm nghìn tỉ thiên hà (vô số
quốc độ Phật) thì chưa biết bao giờ các phương tiện của loài người có thể nhận
thức được, thậm chí đi qua được Ngân Hà có trái đất của chúng ta dự tính khoảng
10 tỷ năm ánh sáng. Tuy nhiên, khi bản thân tu luyện Giác Ngộ là có thể cảm thấy
hết được qua con mắt Trí Huệ.
Do nghiêm
túc tập luyện Dưỡng Tâm Gia Pháp của võ cổ truyền Nhất Nam từng bước chắc chắn,
lâu dài mà may mắn hấp thụ được dòng tâm linh bất tận của tổ tiên, dân tộc Việt,
rồi sau này lại được Thiên giáo học hành, tập luyện bài bản, nên nhờ đó cảm nhận
được được khối tâm linh rộng lớn, sâu thẳm bao la và bất tận, quán xuyến toàn bộ
mọi việc của vũ trụ. Thế nên muốn tâm sự vài điều ngộ ra để tham khảo, bàn luận,
xin góp ý. Kinh, sách vạn quyển nói về vấn đề Võ Đạo, Thiền, Giác Ngộ từ xa xưa
tới nay theo tám vạn phương pháp khác nhau, nhưng ở đây chỉ xin tỏ bày một
phương pháp nữa, vừa là kết quả của quá trình học hành, tu tập, lại vừa là kết
quả của những phát hiện thêm cho sự phong phú sẵn có của Đạo. Phương pháp đó chính là kết quả khi tu tập
Dưỡng Tâm Gia Pháp của võ cổ truyền Nhất Nam Việt Nam không khác gì với sự Giác
Ngộ trong Thiền của Phật.
Các kiểu
Thiên hà Các hình chữ Vạn
Kiểu
quay theo chiều kim đồng hồ Kiểu quay
ngược lại kim đồng hồ
Phần 1 - Võ cổ truyền Nhất Nam cùng Phật
giáo cùng trong sự tồn vong và phát triển nước Việt Nam
Không có một dân tộc nào trên thế giới
này lại bị o ép, bầm dập suốt cả chiều dài lịch sử, ngay từ thủa sơ khai tới tận
bây giờ như dân tộc Việt. Tuy nhiên, không vì thế mà họ nao núng, nản lòng,
buông xuôi, mà cả dân tộc cứ hừng hực tiến lên vượt qua mọi thử thách bão tố với
bao gian truân, vất vả, hy sinh của tất cả các thế hệ, nhờ đó mà họ luôn mang
trong mình một tinh thần bền bỉ, quật cường, chịu đựng, sáng tạo, bình thản,
yêu người, yêu đời, yêu cuộc sống. Đó là tố chất của của Thiền trong Võ Đạo, mà
tiêu biểu là võ cổ truyền Nhất Nam và Thiền Tông Việt Nam. Một bên là Sức Mạnh,
Mưu Lược, còn một bên thì là Trí Huệ kết hợp sâu sắc, nhuần nhuyễn với nhau. Chỉ
xét qua cả chiều dài lịch sử dân tộc Việt đã thấy toát lên cái căn cốt của Bát
Nhã Ba La Mật (Sáu tính cánh cơ bản cho mỗi con người phải rèn luyện trong suốt
cuộc đời để đạt Đại Ngộ) trong tính cách người Việt:
1. Bố thí: Sẵn lòng giúp đỡ
người khác mà không kể công:
“Lá
lành đùm lá rách”;
“Bầu
ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”;
“Nhường
cơm, xẻ áo”;
Ca dao, tục ngữ
“Khoan
thứ sức dân là kế sâu rễ bền gốc”
Trần Hưng Đạo
“Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.”
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.”
Nguyễn Trãi
2. Trì giới:
Luôn giữ đúng mực:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy
chí nhân để thay cường bạo”
Nguyễn Trãi
3. Nhẫn nhục: Chịu đựng, khiêm tốn:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!”
Hồ
Chí Minh
“Từ bao lâu ta nuốt căm hờn,
Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn”.
Tiến quân ca – Văn Cao
4. Tinh tấn: Nỗ lực phấn đấu không ngừng:
“Dù
có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành được độc lập”;
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực
dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta
phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao
kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn
năm!
“Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào,
Tiến
lên chiến sĩ đồng bào,
Bắc
Nam xum họp xuân nào vui hơn.”
Hồ Chủ Tịch
“Cùng tiến lên, cùng tiến lên, nước non Việt Nam
ta vững bền”
Tiến quân ca – Văn Cao
5. Thiền định: Sự
thoải mái trong suy nghĩ, yên tĩnh trong tâm hồn:
“Đói
tới thì ăn, mệt ngủ liền”
Trần Tung
“Mùi
Thiền đã bén muối dưa,
Màu
Thiền ăn mặc đã ưa nâu sòng”
Kiều – Nguyễn Du
6. Trí Huệ:
Nhìn thấu sự vật, sự việc xuyên qua mọi không gian, thời gian: “Nam quốc sơn hà
Nam đế cư, Hoàng thiên dĩ định tại Thiên thư”
Lý Thường Kiệt
“Đất
nước hai phen chồn ngựa đá,
Non
sông nghìn thủa vững âu vàng”
Trần Nhân Tông
“Có
tài mà cậy chi tài,
Chữ
tài đi với chữ tai một vần.
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Nguyễn Du
“Võ
Nhất Nam (Võ Hét) đã đi cùng với việc tồn tại từ thủa sơ khai dựng nước, giữ nước,
mà từng động tác trong các bài quyền còn ghi lại rõ nét cái thủa hào hùng, bi
tráng của dân tộc. Trang phục của Nhất Nam cũng giống trang phục đóng khố cởi
trần của người Việt cổ trên Trống Đồng ngàn năm. Nếu bạn có tập Nhất Nam một
lúc thôi thì bạn cũng muốn cởi hết quần áo, chỉ để độc một chiếc quần đùi mới
thấy thoải mái vì cơ thể nhễ nhại mồ hôi, bùn đất bẩn thỉu vì lăn lê bò toài.
Nhất Nam là 1 môn phái võ thuật có
lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc ta. Đất tổ của môn phái nằm trên vùng
đất tối cổ châu Hoan , châu Ái ( tức vùng Thanh Hoá , Nghệ An hiện nay ) địa
thế như gốc một chiếc quạt xoè ra.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước, các môn võ , bài võ cổ đã lưu truyền ẩn hiện trong dân gian,
trong các dòng họ trau dồi , sáng tạo, giao lưu tiếp thụ những tinh hoa của các
môn võ của các dân tộc khác mà hình thành nên những đặc điểm riêng biệt phù hợp
với thể tạng và tầm vóc của người Việt Nam.
Phái võ Nhất Nam là một môn phái võ
có tính qui mô và tính tổ chức cao. Hệ thống môn công đồ sộ, toàn diện: quyền,
binh khí, công phu luyện nội, ngoại ... cùng với một hệ thống lý luận về tâm
pháp, yếu pháp làm cơ sở và nền tảng lý luận cho người luyện tập, giao đấu và
đối nhân xử thế. Hệ thống môn công của phái Nhất Nam được đúc kết, sáng tạo dựa
trên sự vận hành của khí huyết, những đặc điểm tâm - sinh lý và cơ chế vận động
cơ bắp của con người; huy động tối đa sức mạnh của bản thân, lợi dụng sức mạnh
của đối phương để đánh đối phương.
Phái Nhất Nam đưa ra các bài tập đặc
thù có tính liên tục trong các đòn thế chuyên để luyện các môn công như: tay
xà, tay trảo, tay đao, tay quyền... hoặc đặc dị hơn là các bài “ Ma quyền “, “
Ảo quyền “, “ Hoa quyền “ ... về binh khí có 9 bài kiếm, 9 bài côn, 5 bài
rìu... ngoài ra còn có một môn binh khí độc đáo nữa là “ nhung thuật ” chuyên
dĩ nhu chế cương, sử dụng giải lụa 2 đầu có vật nặng để chiến đấu; vừa có sự
mềm mại uyển chuyển trói bắt binh khí đối phương, vừa có thể công phá mục tiêu
với sức khó có binh khí nào đạt tới được.
Đồng thời với việc học tập và rèn
luyện quyền cước, binh khí, công phu nội, ngoại... người học võ Nhất Nam cũng
được học tập cả Tâm pháp; nó là những đúc kết kinh nghiệm xương máu trong chiến
đấu, tập luyện và đối nhân xử thế, với nguyên tắc :
Dù công hay thủ người luyện võ không
được coi nhẹ môn công nào, từ bộ tay, bộ chân, thân pháp, tấn pháp, thủ pháp,
công pháp đến kỹ thuật hoá giải, biến hoá chiêu thức... một thế chứa trăm vạn
thế, trăm vạn thế thu vào một thế; dùng tĩnh chế động, dùng động chế tĩnh; địch
không động ta không động, địch động ta động trước, đòn đi sau nhưng đến trước;
dùng ít sức nhưng vẫn đạt hiệu quả cao...
Trong phái Nhất Nam mỗi một đòn thế
đều được phân tích kỹ lưỡng để hiểu được sự hay dở, của mỗi đòn thế; trường hợp
nào, khoảng cách nào thì đem lại hiệu qủa cao nhất, khi tấn công mà bị phản
công thì phòng thủ ra sao... Do đó việc dạy và luyện võ của phái Nhất Nam trên
tinh thần :
Trong giao đấu cũng như trong cuộc
sống thường nhật kẻ luyện võ cần có những nguyên tắc, lý tưởng để chỉ đạo tư
tưởng và hành động ; người luyện võ cần hiểu được Đạo của tự nhiên, trào lưu
của xã hội, tâm sinh lý con người như vậy mới có thể đưa ra phương châm sử lý
đúng đắn trong mọi tình huống.
“ Khéo thua không bị chết
Giỏi đánh không sợ thua
Giỏi bày trận không cần đánh
Giỏi cầm quyền không cần bày trận
Hiểu đạo không cần dụng binh .”
Môn
phái NHẤT NAM với tiêu chí " rèn đức " : " tu thân ";
" dạy người "; " cảm hoá "... Do đó có một kỷ luật hết sức
chặt chẽ, tạo được quan hệ trên kính dưới nhường; tình thầy trò, tình bạn đồng
môn mật thiết. Người học trò trau dồi được đức tính khiêm nhường, điềm tĩnh, có
chí, có nghị lực hơn người”.
Sách
Nhất Nam Căn bản tập 1 – Võ sư Ngô Xuân Bính
Võ Nhất Nam là một phái võ ở Việt Nam. Võ Nhất
Nam mới chính thức ra mắt tại Hà Nội vào
ngày 23 tháng 10 năm 1983 do võ sư Ngô Xuân Bính đưa ra giới thiệu.
“Võ sư Ngô Xuân Bính xuất thân trong gia đình có truyền thống
về võ, ông học võ ngay từ thân phụ và các võ sư nổi tiếng trong vùng Thanh Hóa,
Nghệ Tĩnh đã lĩnh hội được truyền thống võ thuật dân tộc lâu đời,
muốn thống nhất, đồng nhất các kỹ thuật võ Việt ông đã tiếp thu được để cùng
vun vén về cội nguồn, hy vọng quy tụ các kỹ thuật của bầu đoàn võ của vùng sông Lam, sông Mã thành
một phái võ riêng cho Việt Nam. Ông là một học trò giỏi của làng võ Việt Nam,
nên khi ông là chưởng môn phái đã đặt tên cho môn
võ mới là phái võ Nhất Nam. Với ý nghĩa đây là một đứa con của làng võ Việt
nam, một phần tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Hiện
tại, giáo sư bác sỹ – Viện sỹ Ngô Xuân Bính, sinh năm 1957 tại Nghệ An, làm
việc tại CHLB Nga từ năm 1990 đến nay. Do có những đóng góp lớn trong việc
khám chữa bệnh và nghiên cứu, xuất bản những công trình khoa học có giá trị
thực tiễn cao, ngày 24/1/2010, Hiệp hội y học dân gian Nga đã phong tặng ông
học hàm: “Giáo sư chuyên môn”; Liên hiệp quốc trao tặng ông huân chương cao
quý “Nicholai Peregov” vì những đóng góp “lớn lao và đặc biệt” vào nền y tế thế
giới, theo đề nghị của Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Châu Âu. Ông là
một trong số 55 người trên thế giới được tặng thưởng huân chương cao
quý này. Hiện ông là Ủy viên Ủy ban Liên bang Nga về chăm sóc sức
khỏe cộng đồng.
Lễ
đón Giáo sư bác sỹ –Viện sỹ Ngô Xuân Bính tại sân bay Nội Bài
Từ
ngày 16-18/6/2011, tại Diễn đàn quốc tế lần thứ VI “Y học liên kết 2011” do
Hiệp hội Y học dân tộc Nga (RANM) và Viện sức khỏe quốc gia thành phố Saint
Peterburg phối hợp tổ chức, Giáo sư Ngô Xuân Bính là đồng Chủ tịch hội thảo
“Những khái niệm và công nghệ riêng biệt trong y học bổ trợ” và có bài tham
luận: “Những đặc điểm của việc điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động của các
chuyên gia y học dân tộc hiện nay.”
Cũng tại diễn đàn này, trước Hội đồng khoa học đến từ
Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên châu Âu, ông đã công bố lần đầu tiên công
trình khoa học đồ sộ với 1.500 trang viết của mình, tựa đề: “Cao
huyết áp - Các chứng liên đới – Chuyên khoa châm cứu,” tập 1. Tại Việt Nam
công trình này cũng vừa được Nhà xuất bản Y học Việt Nam ấn hành.
Theo đánh giá của RANM, công trình này là kết quả của nhiều
năm nghiên cứu khoa học và thực hành chữa trị bệnh cao huyết áp. Tác giả đã
thành công trong việc trình bày những vấn đề nền tảng của y học cổ truyền
phương Đông một cách dễ hiểu, dựa trên cơ sở tương tác năng lượng “âm - dương”
và hệ thống kinh lạc. Công trình đã được Hội đồng khoa học RANM nhất trí phổ
biến rộng rãi cho các chuyên gia châm cứu.
Quỹ
“Trung tâm Tổng thống Elxin” đã đánh giá rất cao: “…Các sơ đồ điều
trị có hiệu quả được mô tả trong công trình nghiên cứu, dựa trên thực
hành nhiều năm của GS-VS Ngô Xuân Bính ở nước Nga. Tính độc đáo của
công trình này là ở chỗ, kỹ thuật Đông y đã được thích nghi và ứng
dụng có hiệu quả trong việc điều trị các bệnh nhân trên lãnh thổ
của Liên Bang Nga… có hiệu quả rất cao trong các bệnh nhân nam, nữ mọi
lứa tuổi đạt tới 95-97%..., mở ra khả năng sử dụng rộng rãi các
phương pháp độc đáo của GS Ngô Xuân Bính cho các chuyên gia Nga trong
lĩnh vực châm cứu chữa bệnh”.
Sau khi nhận xét, Hội đồng khoa học Viện Hàn lâm khoa
học tự nhiên châu Âu đã chính thức trao học hàm: “Viện sỹ” cho Giáo sư
Ngô Xuân Bính. Đây là sự ghi nhận của các nhà bác học hàng đầu thế
giới đối với thành tựu khoa học của ông, một lần nữa khẳng định
chiều sâu văn hóa Việt trong đời sống đương đại.
Ngoài những thành tựu về khoa học, Giáo
sư – Viện sỹ Ngô Xuân Bính còn là Võ sư Chưởng môn phái Nhất Nam, Chủ
tịch Liên đoàn võ thuật Nhất Nam tại Liên bang Nga; là một hoa sỹ tài
danh, Viện sỹ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Nga”.
Nguyễn Trung Hiếu
Phật
giáo, Thiền tông tuy tới sau Nhất Nam, chỉ từ đầu thế kỷ thứ nhất sau Công
nguyên, rồi mạnh ở thời Lý - Trần, nhưng Phật Thiền cũng đều gắn bó máu thịt với
sự tồn vong của dân tộc Việt ở bất kỳ thời điểm nào kể từ khi du nhập tới tận
ngày nay. Các nhà mưu lược thời nhà Đinh như thiền sư Ngô Chân Lưu (con của Ngô
Quyền), các vua quan nhà Lý, nhà Trần, những con người vừa phải mạnh về quân sự
để giữ vững chủ quyền dân tộc sau ngàn năm nô lệ, vừa phải xây dựng kinh tế đất
nước ổn định, phồn vinh, nhưng họ vẫn mang trong mình một tâm hồn bao la, thấm
đẫm tình cảm, tình người cùng những tư tưởng trác tuyệt.
Hai
vấn chiến đấu kháng chiến để bảo vệ Tổ quốc và lòng Từ Bi yêu thương con người
và muôn loài tưởng chừng khác biệt mà lại song hành cùng tồn tại từ rất sớm để
trợ giúp dân tộc tồn tại mạnh mẽ tới tận bây giờ và mãi mãi mai sau.
Hệ
thống lý luận binh pháp của ta chỉ có sau nghìn năm Bắc thuộc và tiêu biểu là
Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo, còn việc phát triển võ nghệ để đánh giặc cứu
nước thì thường xuyên, liên tục và rất cấp bách ngay từ thủa sơ khai, do mặt đối
mặt, ảnh hưởng trực tiếp ngay tới sinh mệnh và sự tồn vong của làng xã, thôn
xóm, quốc gia. Lối đánh du kích ban ngày lui vào núi rừng ẩn nấp, đêm đến đột
nhập vào các căn cứ của địch để đánh phá tiêu diệt dần dần chúng đã có từ thời
nhà Tần xâm lược cách đây hai nghìn năm. Qua đó phát triển dần Võ Việt trong cọ
sát chiến đấu khi trực diện mặt đối mặt quân thù, từng con người cụ thể phải tự
bảo vệ mình và tìm mọi cách thức để tiêu diệt chúng, bảo vệ mình, đồng loại,
quê hương, làng xóm, sau dần thì các chiêu thức phát triển lên từ đó. Để đối
phó được với một đội quân chuyên nghiệp, nhà nghề phương Bắc thật không hề đơn
giản vì họ có cả một hệ thống lý luận quân sự bài bản như Binh pháp từ thời nhà
Chu của Khương Tử Nha rồi các Binh pháp khác như Tôn Tử, Ngô Khởi, Lý Tĩnh, Khổng
Minh,… có nghĩa là rất sớm so với nước ta (cả hai nghìn năm trăm năm), rồi đủ
mười tám ban võ nghệ có lề luật nghiêm chỉnh. Do vậy, kỹ năng chiến đấu giáp lá
cà của họ rất tinh thâm, thiện nghệ. Để khắc chế và giành thắng lợi cụ thể cho
thắng lợi chung dành được độc lập thì dân tộc ta, cụ thể là mỗi người chiến sĩ,
tướng lĩnh phải không ngừng rèn luyện, học hỏi, suy ngẫm để vượt lên chính mình,
khống chế được người phương Bắc. Tập luyện võ, thi đấu võ đã là chuyện rất vất
vả, khổ công, nhưng trong chiến tranh, việc chiến đấu và chiến thắng trong suốt
cả nghìn năm Bắc thuộc lại là cả một sự kiên trì, nhẫn nhục, bền bỉ, tinh tấn,
kiên định, trí huệ vô cùng để tồn tại. Khu Giảng Võ – Thăng Long – Hà nội, bao
nhiêu chiến địa bất hủ trên đất nước: Cổ Loa, Sông Cầu, Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống
Đa, Rạch Gầm, Xoài Mút, Sông Lô, Điện Biên Phủ, Hà nội, Trường Sơn, Hồ Chí
Minh,…. “cờ in máu chiến thắng vang hồn nước”, “mỗi tấc đất Hà nội đều thấm máu
hồng tươi”, “đường vinh quang xây xác quân thù”,…. Nhưng không vì thế mà các
làng quê ở khắp mọi miền đất nước Việt Nam thiếu vắng bóng chùa chiền để rồi mỗi
rằm, mồng một là mọi người lại nô nức lên đó cầu khấn cho quốc thái, dân an. Vì
lẽ đó nên khi Phật giáo vào Việt Nam thì sự hòa hợp đã rất nhanh chóng cả về
chiều sâu lẫn chiều rộng, lý lẽ của Phật cũng phù hợp với đòi hỏi cấp bách về
lý luận, về quan điểm của người Việt. Phật giáo giúp người Việt yên tâm, tin tưởng
vào suy nghĩ, hành động của mình để tồn tại và chống trả lại rồi hòa nhập song
hành cùng với phương Bắc và muôn phương.
Để
đúc kết được cả về thể chất lẫn tinh thần người Việt, ngoài luyện Võ còn cả rèn
luyện ý chí, tinh thần và rồi Dưỡng tâm gia pháp (khí công Nhất Nam) ra đời
trong hoàn cảnh đó. Dưỡng tâm gia pháp không theo cách luyện Thiền nhiều, mà lại
theo cách luyện Khí của Tàu qua những đường kinh, lạc, huyệt vị, nhưng việc luyện
tập lại ngược lại hoàn toàn so với lý luận Đông Y (Không xuôi Nhâm Đốc mà qua Đốc
lên Nhâm). Việc luyện Khí Nhất Nam này hoàn toàn dựa trên nền tảng tinh thần của
Bát Nhã, do đó tuy nó có ngược so với lý luận của Đông Y nhưng lại hoàn toàn
đúng với tư tưởng Giác ngộ của Phật, của Thiền là Định Tuệ (yên tĩnh, tập trung
sẽ sáng suốt, mạnh mẽ). Về khoa học thì nó chuẩn theo qui luật vận hành của các
thiên hà trong vũ trụ (xoay từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ, giống biểu
tượng của Phật). Đường vận khí cơ bản của Nhất Nam là theo chiều kim đồng hồ
khi cơ thể quay về bên trái (bên tim): Hít vào: qua từ mũi qua chau mày, trán,
đỉnh đầu, gáy, sống lưng, hậu môn, rồi tụ ở đan điền + vồng lưỡi lên nối Nhâm Đốc;
Thở ra: sau đó thì ép bụng đẩy khí qua rốn, ức, ngực, tới cổ họng thì chờ khí tự
bật ra tiếng bục. Còn đường vận khí của
Đông Y Trung Hoa lại ngược lại, hít vào: xuống Nhâm; Thở ra: lên Đốc, hay cũng
cùng chiều kim đồng hồ khi cơ thể quay về bên phải (bên không có tim; tâm). Mà
“vạn vật chi tâm”, có nghĩa là phải lấy tâm làm gốc rồi tính, thì đường vận khí
của Nhất Nam sẽ chuẩn theo thiên hà vũ trụ hơn là đường vận khí của Tàu theo Trời
Đất là một thực thể rất nhỏ trong Thiên hà mênh mông, rộng lớn phải mất cả 10 tỷ
năm mới bay ra được nếu tính theo tốc độ tàu vũ trụ, còn bay lên quĩ đạo trái đất
chắc chỉ tính bằng giờ, phút. Chính vì vậy mà chỉ luyện chừng bảy năm theo bốn giai
đoạn đầu của Dưỡng tâm gia pháp là đã có thể Giác Ngộ như luyện Thiền của Phật.
Đó là một điều hết sức kỳ diệu, sáng tạo tới mức Trí Huệ của Cha Ông ta xưa.
Tim nằm ở bên phải là rất hãn hữu, nhưng nếu tính từ bên phải thì đường đi
chính của Khí công Trung Hoa là thuận. Trong vũ trụ cũng vậy, có những thiên hà
quay ngược chiều kim đồng hồ nhưng nó cũng hiếm như tim nằm ở bên phải. Nếu để
ý ta sẽ thấy các vận động viên biểu diễn võ sẽ đánh mặt qua trái trước khi vận
động chân tay biểu diễn và người đắc khí biểu diễn sẽ cảm thấy rõ nét nhất về vấn
đề này.
Các
thiền sư kể từ Phật Tổ trở đi phải rất gian khổ, kiên trì lâu dài mới có thể
Giác ngộ thành Phật, họ phải tự rèn luyện, nghiền ngẫm, trau rồi kiến thức Thiền
trong cuộc sống bộn bề suốt cả mười, hai mươi năm mới Ngộ ra và giữ được nó
luôn trong mình (tu Hạnh Đầu Đà chỉ ăn lá cây, uống nước suối, ở căn lều lá
trong rừng vài năm). Điều này thì cũng như cuộc sống của cư dân Việt, một bên
là phải tự rèn luyện, nghiền ngẫm, trau rồi kiến thức Thiền để thành Phật, còn
một bên là phải tự rèn luyện, nghiền ngẫm, trau rồi kiến thức chiến đấu để Tồn
Tại, mà có lẽ việc rèn luyện, chiến đấu của dân tộc Việt còn lâu dài hơn cả việc
luyện Thiền vì có những thời kỳ ngắn là 10 năm chống Tần, Minh, dài là hơn 100
năm đánh Pháp + Nhật + Mỹ + Pôn Pốt + Tàu, 1000 năm đánh Tàu Bắc thuộc. Hai mục
đích khác nhau nhưng lại có cùng một con đường đi, nên khi tới đích vô tình mà
lại gặp nhau ở Phật (Trí Huệ). Do lẽ đó nên các Cụ muốn nhắc nhở con cháu luôn
luôn phải nhớ kỹ về phương Bắc qua việc dựa trên Đông y của Tàu mà làm ngược
lên đó, vượt lên đó (Việt) để mà vẫn Giác ngộ, vẫn thành Phật, chứ nếu cứ chỉ
tu tập như Thiền thì đơn giản quá, dễ quá đối với dân tộc chịu đau thương, mất
mát nhiều như dân tộc Việt. Đó là phải vượt qua Tàu mới có thể thành Phật, vì họ
mạnh, thích bành trướng, lại ở cạnh ta thường xuyên, nên ta phải hiểu được họ
và vượt (Việt) qua họ, cũng chính là vượt qua chính bản thân mình, đó chính là
Việt tộc. Luyện Thiền hiền hòa, tốt bụng cũng để thành Phật, nhưng đó là ở Nhật
bản, Trung quốc, Ấn độ, chứ ở Việt nam thì khó có sự ổn định, yên ổn, hòa bình
để làm được việc này. Nhưng không phải vì thế mà các Cụ ta không hiểu Thiền, hiểu
Khí, để vừa cung cấp sức mạnh tư tưởng trí tuệ cho dân tộc, lại vừa cung cấp sức
mạnh thể chất tâm linh cho mỗi con người cụ thể, nhưng cách rèn luyện thì phải
nghiên cứu thực hành rất kỹ để hàm chứa cả tâm hồn, trí tuệ và sức mạnh của một
dân tộc Việt bên trong, sao cho bền vững, khoa học và không thể lẫn vào đâu được.
Qua đó ta thấy sự uyên thâm về suy nghĩ, tầm nhìn lâu dài cho tương lai dân tộc,
việc bảo tồn và gìn giữ bản sắc người Việt kỹ lưỡng và mạnh mẽ tới mức nào.
Không có Trí Huệ nhất định không thể phát triển, phát minh ra được như vậy.
Nhưng tại sao có Trí Huệ như vậy mà kinh tế khó khăn, vất vả lâu tới vậy? Là vì
trong chiến tranh lâu dài, gian khổ, tính tình cảm, chia sẻ, tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau, cái gì cũng nhanh, cũng vội, cũng cho qua để tập trung cho chiến đấu,
tồn tại lớn hơn rất nhiều với việc tính toán, lo liệu kinh tế cho bản thân, gia
đình, cá nhân. Ai ai cũng thấy cái chung, cái vì cộng đồng, dân tộc đất nước lớn
hơn rất nhiều kinh tế, làm giàu cá nhân, lâu dần nó ăn sâu vào tâm thức, tính
cách của người Việt tạo ra một nét văn hóa, một cách sống, mà cụ thể là làm
kinh tế lẹt đẹt như hiện nay và việc ăn nhậu xong thì một người trả chứ không
chia đều như Tây. Đến khi hòa bình, làm kinh tế do quán tính, mọi người vẫn cứ
bị theo nếp nghĩ như vậy nên khó thành công. Mà nguyên nhân sâu xa của chiến
tranh lại là kinh tế, tranh giành đất đai, tài nguyên, con người, của cải,…Vậy
việc cải nghĩ trong công tác kinh tế phải được tiến hành trên diện rộng và có
bài bản, nghiên cứu nghiêm túc, để dân tộc Việt thoát được việc coi thường kinh
tế, mà phải coi trọng nó như chiến tranh: “thương trường như chiến trường”.
Kinh tế là cạnh tranh khốc liệt mà và kinh tế là nguyên nhân của mọi cuộc chiến
tranh. Muôn loài đều như vậy, đều cạnh tranh, đánh nhau vì miếng ăn, chỗ ở, vũ
trụ cũng không ngừng thâu tóm lẫn nhau để mở rộng phát triển, kinh tế là làm ăn
và thu lợi nên cũng chẳng thể yên ổn và bất cẩn được. Tóm lại muốn tồn tại thì
phải tranh đấu tới cùng. Cứ nghe âm nhạc cổ truyền sẽ không thấy mức độ khốc liệt
của chiến tranh mà chỉ thấy sự hài hòa, tình cảm, yêu đời, yêu thiên nhiên của
người Việt. Nhưng từng chi tiết trong mọi động tác Nhất Nam thì thấy rất rõ từng
nét khốc liệt, sống chết của Cha Ông xưa hằn rõ tới tận bây giờ. Kể cả âm nhạc
chống Mỹ, Pháp cũng thấy dạt dào tình cảm, lạc quan, yêu đời, yêu người, chứ
không có sự hận thù, khốc liệt của chiến tranh. Nhưng nếu vào bảo tàng Quân đội,
Chiến thắng B52, những trẻ em nhiễm chất độc màu Da cam, nhìn nền kinh tế Việt
nam thì mới thấy phần nào mức độ khốc liệt của chiến tranh. Đó là tâm hồn nhân
văn, giải thoát và bản lĩnh nghị lực phi thường của người Việt sau bao gian
lao, nhọc nhằn, hy sinh, mất mát của cuộc sống sinh tồn.
Cụ
thể về hình ảnh của từng động tác, từng thế võ Nhất Nam ta sẽ thấy sự đè nặng,
tỳ dí ép, ép đẩy, xoắn vít, gào thét man rợ để rồi bung ra những lực có sức mạnh,
tốc độ khủng khiếp đè nát quân thù, phải chăng đó cũng là kết quả lịch sử của sức
ép chiến tranh đè nặng nên mỗi con người phải gánh chịu phải đấu tranh để vượt
qua kẻ thù giành lại tự do, độc lập. Còn ở góc độ khoa học sâu xa đó là nội
công và ngoại công kết hợp làm một để cùng rèn luyện và sử dụng ở một thời điểm,
điều này khác biệt hoàn toàn với cách luyện nội ngoại tách rời của Trung Hoa
hay Nhật Bản, Triều Tiên. Ở cạnh Trung hoa mà không bị đồng hóa, học cái hay của
họ, hiểu được điểm yếu, điểm mạnh của họ thì không phải dân tộc nào cũng có thể
làm được, nhưng cái giá phải trả cũng không nhỏ khi bao thế hệ phải hy sinh
xương máu vì Tổ quốc. Nhiều dân tộc to lớn khác ở cạnh Trung Hoa như Mãn Châu,
Mông Cổ, Hồi Hột, Tây Tạng cũng không thoát khỏi được sự ảnh hưởng của họ chỉ
vì lòng quyết tâm, ý chí chiến đấu chưa mạnh mẽ như dân tộc Việt. Sâu xa hơn nữa
là do họ không có trí tuệ bằng Tàu, hoặc học không đầy đủ, nên không hiểu,
không thể sáng tạo vượt lên được. Hãy nhìn nền Đông Y khổng lồ với hệ thống lý
luận chặt chẽ, to lớn mà Khí Nhất Nam làm ngược lại, đi ngược lên đầu rồi xuống
lưng (Đốc) lên bụng (Nhâm) để thoát ra mới thấy sự tìm tòi, sáng tạo của người
Việt thế nào khi học tập Đông Y Trung Hoa (Xin xem một số so sánh đính kèm).
Hãy thăm quan Quốc Tử Giám Hà nội, Mao Điền - Hải Dương, Huế, mới thấy cái học
nghiêm túc, bài bản, sâu sắc của bao Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Tiến Sĩ, Cử Nhân
của các Cụ ta xưa kỹ lưỡng tới thế nào. “Hiền tài là nguyên khí của Quốc Gia”
được tạc dựng ở đó, Khổng Tử cùng bốn vị Thánh hiền và Chu Văn An được thờ tự ở
đó là minh chứng hùng hồn cho việc hiểu sâu, nắm vững Trung Hoa của dân tộc Việt
về mọi mặt tư tưởng, chính trị, văn hóa, quân sự, kinh tế, địa lý, con người,…
ngang bằng và không thua kém tầng lớp tinh hoa nhất của Trung Hoa ở mọi thời đại.
Ở
phương Tây coi “Vật chất quyết định ý thức”, vật chất của họ là khoa học kỹ thuật,
kinh tế, gây chiến tranh. Nhưng trên dải đất hình chữ S thì “Sức ép chiến tranh
quyết định tinh thần”, có nghĩa là vật chất của chúng ta là sự gây chiến của đối
phương và tinh thần kháng chiến chống lại của cả dân tộc ta trong “cả nghìn năm đô hộ giặc Tàu, trăm năm nô lệ
giặc Tây”. Vậy nên, sức ép, ách đô hộ thống trị tàn bạo của chúng đã tạo ra vật
chất là tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc ta, thôi thúc dân ta
sáng tạo ra những vấn đề phi thường để vượt lên kẻ thù hung bạo giành lại quyền
sống, quyền tự do mà không có bất kỳ một sách vở hay nền giáo dục nào hướng dẫn.
Trên thế giới có dân tộc Mông cổ cũng không có chữ viết, không có Binh pháp mà
chỉ nhờ cuộc sống du mục, đấu tranh chống lại sự khắc nghiệt lạnh giá của thiên
nhiên, của bầy đàn chó sói mà trở nên mạnh mẽ gây chiến khắp cả thế giới xưa
kia. Qua đó để thấy rằng chỉ có kinh qua trải nghiệm thực tiễn mới có kiến thức
thực sự, sách vở vẫn chỉ là “lý thuyết xám xịt, còn cây đời mãi mãi xanh tươi.”
Nhưng sự tàn bạo khốc liệt của người Mông Cổ mới chỉ có sức mạnh mà thiếu sự
hài hòa, yêu đời, yêu người, nên không bằng sự Quật Cường và Trí Huệ của người
Việt được. Đó là họ chưa biết và hài hòa được giữa hai sức mạnh Cứng Mềm, Không
và Có. Sau này lịch sử lại được chứng minh hùng hồn qua 54 ngày đêm của Điện
Biên Phủ chống Pháp và 12 ngày đêm của Điện Biên Phủ trên không đánh Mỹ, hai cường
quốc mạnh hơn cả Mông Cổ khi xưa. Qua đó để thấy yếu tố Con Người (Nhân tài là
nguyên khí quốc gia), sức mạnh tinh thần kết hợp vật chất tới mức nhuần nhuyễn,
hài hòa, đỉnh cao tới như nào của dân tộc mà đại diện là các vị anh hùng dân tộc:
“
Sông Đằng một dải dài ghê,
Nguồn
to song lớn đổ về bể Đông,
Trời
Nam sinh kẻ Anh Hùng,
Tăm
kình yên lặng non sông vững vàng”
Khách
lại đáp rằng:
“Vua
Trần hai vị Thánh quân,
Sông
kia còn dấu tẩy trần giáp binh,
Nghìn
xưa ngẫm cuộc thanh bình,
Tài
đâu đất hiểm bởi mình Đức cao”.
Trương
Hán Siêu.
Vậy
con người, chỉ có con người phải suy nghĩ ngày đêm, hành động trường kỳ cùng
năm tháng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân mới có thể có những tư
duy, ý nghĩ vượt lên đối phương, trên tầm thời đại như vậy. Do vậy, các di sản
tinh thần của người Việt mới sâu sắc, lâu bền, vĩ đại đến thế, so với các di sản
vật chất dù to nhỏ đều nhanh biến mất theo sự nghiệt ngã của thời gian.
Ở
Trung Hoa chưa có vị vua nào dám từ bỏ ngai vàng đi tu thành Phật như Phật
Hoàng Trần Nhân Tông, con người vĩ đại hợp nhất được cả Nho, Phật, Lão. Vị Phật
sống vừa hiểu đời, lại hai lần lãnh đạo dân tộc chiến đấu chống kẻ thù Mông
Nguyên lớn mạnh nhất của thời đại, vừa thông với Vũ Trụ Càn Khôn rồi nhường
ngôi vàng tu thành Phật. Bên Trung Hoa chỉ thấy tôn thờ Đạt Ma Sư Tổ, Quan Thế
Âm Bồ Tát, mà không thấy có vị nào dám tự rèn luyện để thành và vượt (Việt)
trên các vị ấy. Thật tự hào, thật hạnh phúc cho dân tộc ta, dân tộc Việt Nam. Tương
tự vậy, trên thế giới không có vị lãnh tụ nào khiêm nhường, giản dị, lỗi lạc
như cụ Hồ Chí Minh, minh chứng cho sự kiên trì, bền bỉ, kiên cường, bất khuất,…
kết tinh của mọi tinh hoa dân tộc Việt Nam và thế giới:
“Chí
khí tráng sơn hà, cổ kim anh hùng duy hữu nhất,
Minh
tinh quang nhật nguyệt Á, Âu hào kiệt tự vô song”.
Mao
Trạch Đông.
Trong làng võ cổ truyền Việt Nam ta có rất
nhiều môn phái, nhưng Võ cổ truyền Nhất
Nam là cổ nhất và đã cùng Phật giáo Thiền Tông đang, sẽ song hành trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam nhằm tạo ra những con người
kiệt xuất, những anh hùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mọi thời đại, một dân tộc
có nền văn hóa mở, tính cánh lạc quan, yêu đời, dễ tha thứ, hòa nhập trong biết
bao bộn bề khó khăn kinh tế, lạc hậu khoa học phải bứt phá, vượt lên hòa mình với
thế giới, với thời đại.
Phần 2 – Kết quả khi tu tập Dưỡng Tâm
Gia Pháp của võ cổ truyền Nhất Nam Việt Nam không khác gì với sự Giác Ngộ trong
Thiền của Phật
1.
Thiền
là gì và để làm gì?
Khi ta chưa sinh ra là khi
bố mẹ ta chưa biết nhau, lúc đó vũ trụ đã có kế hoạch cho ta ra đời để thực hiện
một số công việc cần thiết. Rồi khi ta mất đi thân thể lại hoàn lại những cái
gì ta đã lấy được từ vũ trụ và cuộc sống. Cả hai quá trình trước khi sinh ra và
sau khi mất đi ta đều không thể nhận thức được bản thân và vũ trụ vì ta không
có ta - một bộ máy hoàn hảo nhất của vũ trụ. Chỉ có khi có ta là lúc sinh
trưởng và phát triển thì nhận thức của ta rõ nét nhất, nhưng cũng không đủ khả
năng để nhận thức được hết về chính bản thân ta - vì bản thân ta là một hệ
thống tự nhận thức, tự điều chỉnh phức tạp, tinh vi đã trải qua tiến hóa rất
lâu dài. Thiền ra đời để giải quyết vấn đề nhận thức về bản thân ta trong cả ba
quá trình trước khi sinh ra, khi sinh ra và sau khi mất đi này. Quá trình đó –
Thiền – phải được rèn luyện liên tục, lâu dài để não bộ ta không bị các ảnh
hưởng bởi các yếu tố xung quanh, những tư tưởng ý nghĩ xuất hiện bên trong,
nhưng cơ thể ta vẫn được chỉ huy bởi hệ thống tự nhận thức và tự điều chỉnh, khi
đó nhận thức của chúng ta sẽ hòa được với nhận thức chung của vũ trụ để ta tự
nhận thấy rằng (Giác Ngộ) ta cũng ở
trong một trường Không, rộng lớn bao la như trước khi sinh ra và sau khi mất
đi. Có nghĩa là ta sẽ nhận ra Ta luôn ở trong trường Không rộng lớn tại bất kỹ
thời điểm nào, hay bản thể của ta dù có hay chưa có hoặc mất đi đều nằm trong
cái Không này.
Nhưng tại sao cái Không rộng
lớn đó lại tạo ra cái Có được và cái có rồi lại trở về cái Không? (Sắc Sắc
Không Không) Đó là do sự vận động không ngừng nghỉ của vũ trụ và bản thân ta
nằm trong đó (Kinh Dịch). Nhưng tại sao lại cần sự vận động đó khi mà cuối cùng
của Có là Không rồi từ Không lại trở về Có? Là vì quá trình vận động đó sẽ tạo
ra sự phát triển của mỗi cá thể và của cả vũ trụ bao la. Thế sự phát triển đó
sẽ đi tới đâu? Nó sẽ đi tới sự hoàn thiện dần dần sao cho ưu việt nhất, phù hợp
nhất có thể, trong hoàn cảnh nó có, nó cần.
Vậy Thiền là phương
tiện để ta tự nhận thức được vũ trụ hay bản thân ta là một hệ thống tinh vi,
phức tạp, thống nhất, tự nhận thức, tự điều chỉnh và vận động không ngừng nghỉ
để ngày càng hoàn thiện trong mọi điều kiện của bản thân nó.
Lục Tổ Huệ Năng đã nói:
"Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc cảnh đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai "
Dịch ý là thế này: Chân tâm vốn không phải là một vật thể hiện hữu, chân tâm nó vốn sáng suốt trong trẻo, đừng nhầm nó với chiếc gương mà hằng ngày lau chùi chiếc gương. Giống như người ngắm mình vào chiếc gương, thấy chiếc gương bụi bẩn mà ngỡ tưởng mình bụi bẩn và lại đi hằng ngày lau chiếc gương để mong thấy mình trong sạch hơn. Bản chất của chân tâm vốn không là một vật gì cả thì làm gì có vật nào có thể bám được vào chân tâm mà làm hoen bẩn nó... và do viết bài thơ này mà Lục Tổ Huệ Năng đã được trao Y Bát và là truyền nhân đệ Lục tổ phái Thiền tông Trung hoa và phải lặng lẽ chốn khỏi thiền viện và bị truy sát dáo diết của người bạn đồng môn để hòng đòi lại Y Bát.
Các kinh điển hệ phát triển sau này và các Đại Sư đời sau sự giác ngộ khác với thời Đức Phật . Cũng vì sự chứng ngộ khác biệt nên khi hướng dẫn chúng sinh không còn uyên nguyên trong sáng nguyên thủy như buổi ban đầu. Dù có chứng đắc gì thì chứng chúng ta cũng phải công nhận không ai vượt qua được Đức Phật trong việc thấu suốt chân lý giải thoát.
Nếu ta xem lại các bản kinh cổ thì sẽ không thấy một từ chữ nào nói đến chân tâm, hoàn toàn không có. Trong Tứ Thiền, Cửu Định khi hành giả đạt đến sự tuyệt đối Diệt Tận Định thì Tâm Thức cũng tan biến không còn, bởi bản ngã đã không còn nên các hành giả thấy mình và toàn thể vũ trụ là một. Vô Ngã chính là mục tiêu của Đạo Phật, chúng ta đều biết Kinh Vô Ngã Tướng là bài Pháp thứ hai khi Đức Phật thuyết dưới cội Bồ Đề sau khi Ngài đắc Đạo chánh đẳng chánh giác. Bài Pháp thứ nhất là Kinh chuyển pháp luân ( Tứ Diệu Đế ).
Như vậy trong Đạo Phật thật sự không còn có một chân tâm nào, không còn có một bản ngã nào hiện hữu. Đa phần chúng ta sau này thiên hướng về một chân tâm, một linh hồn không còn như lời Đức Phật dạy nữa. Thật sự không có một cái Ta nào cả, không còn một Ngã nào cả khi hành giả tu tập giác ngộ giáo lý Đạo Phật. Ở đây ta thấy có sự mâu thuẩn giữa lý Không và chân tâm của hệ thống kinh điển phát triển sau này.
Bài pháp Vô Ngã Tướng mà Đức Phật đã tuyên thuyết để hiểu rõ hơn Giáo Pháp của Đức Phật đi đến cùng đích của sự tuyệt đối giác ngộ giải thoát.
Vô Ngã là mục tiêu, cứu cánh của Đạo Phật. Để đạt đến Tâm Vô Ngã hoàn toàn thì chỉ có Đức Phật, bậc Bồ Tát, A La hán mới đạt được cảnh giới này. Sự xuất hiện của Đức Phật là một sự kiện vĩ đại, Ngài đã đem đến luận thuyết siêu việt nhằm xóa tan mọi chấp thủ của con người và mở ra con đường Trung Đạo hầu giúp cho chúng sinh vượt khỏi những trạng thái Tâm Thức hữu hạn và đi đến vô hạn Niết Bàn. Mặc dù Đức Phật đã dọn sẵn con đường giải thoát lý tưởng ấy nhưng không phải ai cũng đủ thắng Phước, phá vỡ lớp vô minh để đi đến đích cuối cùng là Vô Ngã. Hầu hết phàm phu chúng ta đều chấp ngã rất sâu nặng, bị kẹt vào Ngã sở.
Khi sinh ra đời không phải ai cũng may mắn sống trong môi trường thánh thiện cũng như gặp được Minh Sư, Thiện tri thức giúp ta hướng đến những giá trị tâm linh cao quý. Ở đây chính thiện nghiệp tu hành nhiều đời của ta sẽ khiến cho ta có Nhân Duyên gặp gỡ vào thời các Vị Thánh xuất hiện hoằng pháp ở thế gian.
Vô Ngã là gì? Vô là không, Ngã là cái Ta, Bản ngã, Tự Ngã. Như vậy Vô Ngã là không có cái Ta thực thể cố định trong mỗi con người. Thân thể con người là hợp thể của hai thành phần là: sắc thân (vật chất) và tâm linh (tinh thần). Sắc thân do Tứ Đại (đất nước gió lửa) hợp thành. Còn Tâm thì do các yếu tố: Thọ, Tưởng, Hành, Thức và Đức Phật có dạy: Cái gì do nhiều Duyên hợp thành thì không có thực thể.
Hai thành phần vật chất và tâm linh luôn quyện vào nhau và từ đây sinh ra ảo giác về cái Ta rất thật, đồng thời tính cố chấp vào đó rất mãnh liệt cho nên mỗi người đều có cảm giác cái Ta khác với mọi người, mọi vật bên ngoài. Cũng vì cái Ta này mà sinh ra ích kỷ chỉ muốn lợi mình hại người và vô số Tâm bất thiện phát sinh như: kiêu ngạo, đố kỵ, sân hận, tham lam, ác độc v.v..... Vì thế con người chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình một bản năng hưởng thụ, bướng bỉnh, cố chấp, thành kiến, chủ quan, hẹp hòi v.v... Là do chú trọng cái Tôi.
Theo lời Phật dạy trong kinh Vô Ngã Tướng: Bản Ngã này tạo thành do 5 ấm là: Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức đã kết hợp với nhau. Do nhiều Duyên tạo thành như thế nên Bản Ngã không có thực thể và như thế không có cái Ta riêng biệt.
Khi Đức Phật còn tại thế, có vị Tỳ Kheo đã đến hỏi Ngài: " Bạch Thế Tôn nơi mỗi chúng sinh có bản ngã thật sự chăng ? "
Đức Phật trả lời: “Trong mỗi chúng sinh không hề có một tự ngã duy nhất bất biến vĩnh cửu mà được hình thành bởi hợp thể của 5 ấm, giống như trong thân cây chuối không hề có một lõi cứng “.
Chúng ta thường rất coi trọng cái Ta này nên khi bị người khác xúc phạm, coi thường đánh giá thấp thì cái Ta sinh ra bất mãn, buồn bực, chán nản, liều lĩnh, bất chấp hoặc phản đối chống cự . Sự phản đối trở thành một bản năng tự vệ mà không cần biết đúng sai, lý trí con người bị mờ ám và hơn thua, thương ghét cũng từ chấp ngã mà ra. Khi đã chấp ngã thì cho rằng việc làm của ta là hơn, ý nghĩ của ta là đúng, ta là trên hết mọi người. Tuy nhiên kết quả thực tế cho thấy người chấp ngã sâu nặng thường cố chấp nặng nề do đó luôn luôn bị thất bại trong cuộc sống và chuốc lấy phiền muộn khổ đau.
Khi chúng ta theo con đường Phật Đạo là đi tìm sự giác ngộ, giải thoát, vượt khỏi sự chi phối của bản ngã nhưng có được giải thoát hay không là tùy thuộc nhiều vào khả năng buông bỏ những chủ quan, cố chấp, thành kiến của mình .
Do bản ngã sai xử nên con người sống trên đời thường chỉ biết hưởng thụ, tham lam và ích kỷ, do tham đắm dục lạc thế gian mà sinh tội lỗi. Khi đã sa lầy vào tội lỗi thì càng bị Vô minh bao phủ. Ai động chạm đến cái Ta hay bị mất quyền lợi thì sân hận nổi lên mà tạo nghiệp bất thiện. Cái Ta hay Bản Ngã, Tự Ngã là một chướng ngại lớn lao làm giảm giá trị của con người, làm trở ngại trên bước đường tu hành Phật Pháp.
Đức Phật đã dạy chúng ta diệt Bản Ngã để đi đến Vô Ngã hoàn toàn. Khi không hiểu được lẽ Vô Thường của cuộc đời, vạn vật, cây cỏ, con người nên ta xem trọng cái Ngã của mình. Trái đất, vạn vật, thực vật, động vật không tồn tại vĩnh cửu, tất cả đều theo sự tuần hoàn sinh diệt .
Tất cả chúng sinh đều bị bản ngã chi phối do đó đã chịu luân hồi sinh tử trong vô lượng kiếp theo nghiệp đã gây tạo. Đức Phật đã tu tập trong vô lượng kiếp trước, vượt qua bao gian khổ nguy nan với mục tiêu duy nhất là thoát ra khỏi luân hồi sinh tử. Ngài đã hướng mục tiêu này cho mình và cho chúng sinh. Đức Phật đã đạt được sự chứng ngộ tuyệt đối và Ngài hiểu chỉ có Vô Ngã mới làm cho chúng sinh không còn thối đọa trầm luân nữa .
Thông thường chúng ta hay nghĩ rằng hễ nói tới tu hành giải thoát là phải bỏ tất cả, không màng tới bất cứ điều gì khác chỉ việc duy nhất là giữ Tâm sao cho thanh tịnh để mau được đắc Đạo. Tuy nhiên chúng ta không ngờ rằng điều đó tạo nên sự vị kỷ tiềm tàng và con đường dẫn đến giác ngộ đã đóng cửa lại với chúng ta. Vì sao như vậy? Vì chỉ có cuộc sống tràn đầy lòng từ bi, vị tha nhìn thấy những bất an, đau khổ của những người xung quanh để tìm cách cứu giúp cho họ bớt khổ, thêm chút an vui thì mới đúng trên tinh thần của Đạo Phật. Đây cũng là hạnh nguyện của các bậc Bồ Tát dấn thân vào cõi ta bà độ sinh, hoằng Pháp.
Theo lời Đức Phật đã dạy rằng: Tính chất của Thể Tánh Vô Ngã là thông đạt tuyệt đối và tĩnh lặng. Từ nơi này hạnh phúc an lạc của Hành giả là không thể nghĩ bàn. Hạnh phúc ấy không giống như niềm vui xao động, tạm bợ của thế gian mà rất thanh tịnh và sáng suốt, tĩnh lặng. Khi thực hành Pháp Qúan Vô Ngã thấy cái Ta không thật nên sẽ không còn rơi vào bệnh chấp Ngã.
Vô Ngã là giáo lý vô cùng quan trọng trong Đạo Phật, là mục tiêu tối thượng mà người đệ tử Phật hướng đến. Chấp Ngã rất khó vượt qua, nó thầm lặng chi phối sai xử như hơn thua, chỉ trích, đố kỵ, luôn tìm những sơ xuất của người khác trong khi bản thân mình thì không đóng góp điều gì tốt, điều này khiến con người tạo nhiều ác nghiệp.
Con người có hai bản năng rất mạnh là bản năng sinh tồn và hưởng thụ. Bản năng sinh tồn là lúc nào cũng muốn giành giựt, bảo tồn sự sống cho riêng mình. Bản năng hưởng thụ thì luôn luôn khát khao, tìm kiếm những khoái lạc khiến sa đọa nhân cách, làm tổn giảm Phước lực và gây khổ cho bao nhiêu người khác.
Bản ngã đã làm cho con người có ảo giác thấy mình khác với vạn hữu bên ngoài do Tâm Thức ta cùng một lúc có hàng triệu vọng tưởng trùng điệp phát sinh quay cuồng do kết hợp với sự hoạt động của năm uẩn làm ta thấy mình hiện hữu, chứ thật sự không hề có một chủ thể bất biến. Khi cái Ta này hiện hữu thì đồng thời xuất hiện khuynh hướng muốn vượt trội hơn người khác hoặc thấy người khác giỏi hơn mình thì sanh Tâm đố kỵ, ganh ghét, mưu hại. Vì ích kỷ nên ai cũng muốn cá nhân mình được tất cả những gì tốt đẹp, vinh quang, sung sướng, hạnh phúc, thành công v.v... mà bất kể đến đau khổ của người khác hoặc tệ hơn nữa là thích thú trước sự thất bại, sụp đổ của người khác .
Thành quả của việc tu tập Tâm Vô Ngã không đơn giản, trước tiên phải xác định lý tưởng mục tiêu là hướng đến sự giác ngộ, giải thoát. Phải biết sống đời hy sinh, phụng sự, thương yêu trải lòng đến tất cả mọi người. Phải biết tôn kính các bậc Thánh thì mới được làm Thánh, có tôn kính Chư Phật chúng ta mới có nhân giác ngộ giải thoát. Phải biết trải lòng thương yêu đến vạn hữu, biết tôn trọng mọi người với Tâm khiêm tốn tầm thường nhỏ bé của mình.
Tất cả mọi chúng sinh, vạn hữu trên thế gian không ai có thể tự tồn tại độc lập một mình được mà đều có tương quan chặt chẽ với nhau. Sỡ dĩ chúng ta không nhận ra điều này bởi vì chấp ngã đã tạo ra cái Ta riêng biệt khác với mọi người, tạo thành bức tường vô hình ngăn cách giữa người với người.
Chúng ta thường nghe nói tu hành là Tâm bất động không dính mắc gì với cuộc đời, không quan tâm gì đến con người, cứ để duyên đến duyên đi, điều này không đúng với tinh thần Đạo Phật. Tất cả các bậc Bồ Tát hay chúng sinh đang đi trên con đường Bồ Tát Đạo đều phải lụôn lắng nghe, luôn thấu hiểu tâm tư, vướng mắc, hoạn nạn của chúng sinh để tùy Duyên mà cứu độ như là hạnh nguyện của Đại Từ, Đại Bi Qúan Thế Âm Bồ Tát. Khi đạt được Vô Ngã với hạnh nguyện độ sinh, các bậc Đại Bồ Tát đã không quản ngại gian lao nguy khó dấn thân vào trong luân hồi sinh tử để dẫn dắt, giáo hóa, cứu độ chúng sinh khỏi bể trầm luân.
Vô Ngã là Thánh tính của Chư Phật 10 phương, 3 đời và Vô Ngã cũng chính là Niết Bàn tuyệt đối vĩnh hằng. Vô Ngã là gì? Vô Ngã là không có cái Ta chân thật, bởi chúng sinh mê mờ chấp Thân Tâm này là thật, chấp vạn vật là thật trường tồn nên suốt đời bị cuốn hút say đắm vào danh lợi, tiền, tình cho đến gần hết cả cuộc đời mà vẫn chưa tỉnh mộng.
Nhờ giáo lý Đạo Phật soi sáng người Phật tử biết Thân Tâm này do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, sự sống tồn tại trong từng hơi thở sát na và không có cái Ta nào là chắc thật vĩnh cửu. Tất cả là do nhân duyên tồn tại nên hết duyên thì tan hoại, thay ngôi đổi chủ.
Vô Ngã là giáo lý vi diệu của Đạo Phật. Đức Phật của chúng ta đã đạt Vô Ngã giải thoát hoàn toàn với Tâm Đại Bi phủ trùm cả vũ trụ. Trong mỗi chúng sinh đều ẩn sâu một chấp ngã rất mãnh liệt và thường biểu lộ trên nhiều lĩnh vực từ vật chất đến tinh thần, những cảm xúc, niềm vui, hưởng thụ dục lạc với nhiều mức độ khác nhau. Nếu không biết giáo lý của Đức Phật, con người rất dễ bị bản ngã sai xử, lường gạt lôi kéo ta vào những mục đích tầm thường như thích ăn ngon, mặc đẹp, lắm tiền nhiều của, muốn được mọi người nể phục v.v... Cũng vì cung phụng cho cái bản ngã, cái Ta này mà con người đã tạo ra không biết bao nhiêu lỗi lầm, nghiệp chướng để rồi chìm đắm trong vòng luân hồi sinh tử.
Tất cả những hạnh phúc, vui tươi hay đau khổ của con người, nó là kết quả trung thành bởi những hành động của con người gây ra mà Tâm là chủ tạo tác. Thật vậy tất cả chúng ta không ai muốn mình đau khổ, ai cũng muốn sống hạnh phúc. Đau khổ là kết quả của những hành động sai lầm và bất thiện. Hạnh phúc là kết quả đơm bông kết trái của việc làm tốt đẹp. Muốn lọai bỏ điều xấu và làm điều tốt ta sẽ bắt đầu thâm nhập giáo lý Đạo Phật để chuyển hóa nội tâm, để có những suy nghĩ, lời nói, việc làm tốt đẹp đúng Đạo lý. Tâm là nguồn gốc của mọi hành vi và lời nói bên ngoài, kiểm soát được Tâm là nắm được giềng mối Đạo Đức, công hạnh. Người có trí tuệ trong Đạo Phật không phải là người có hiểu biết cao siêu, tiên đoán quá khứ vị lai mà chính là người biết xoay chuyển, hóa giải những ý niệm bất thiện nơi chính mình để tránh tạo bất thiện nghiệp và ngày càng thăng tiến về tâm linh. Tâm là nhân duyên chính khiến ta luân hồi nhưng cũng chính Tâm là duyên lớn nhất giúp ta thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Mục tiêu của Đạo Phật là đạt tới Vô Ngã và loài người chúng ta may mắn nhờ lời dạy của Đức Phật mà có khả năng đạt được mục tiêu này.
Vô Ngã là thấy ta cùng vạn hữu đều như nhau và chỉ có những bậc Thánh mới đạt được đỉnh cao này. Để đạt được Vô Ngã rất khó bởi vì trong thẳm sâu ai cũng có chấp ngã rất sâu dầy. Hễ thấy ai hơn mình thì ganh ghét, đố kỵ hoặc ai đụng chạm đến quyền lợi, thể diện ta nổi sân hận tìm cách đáp trả. Nói đến Vô Ngã là nói đến mấu chốt vô cùng quan trọng trong tiến trình tu tập cho bất kỳ những ai đi trên Đạo lộ giải thoát giác ngộ. Giáo lý về Vô Ngã do chính Đức Phật thuyết giảng và chỉ duy nhất được đề cập trong giáo lý Đạo Phật mà thôi.
Nói đến Vô Ngã là nói đến mấu chốt vô cùng quan trọng trong tiến trình tu tập cho những ai đi trên lộ trình giác ngộ giải thoát. Để đạt được Vô Ngã thì điều đầu tiên là phải phải hóa giải hết ngã chấp. Giáo lý Vô Ngã chỉ duy nhất có trong Đạo Phật và không có trong bất cứ tôn giáo nào trên thế giới. Tận trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người chúng ta dù già hay trẻ, nam hay nữ vẫn luôn mong muốn tìm được hạnh phúc. Do đó hễ có được hạnh phúc là nắm giữ để hưởng thụ. Đây chính là bản năng tự nhiên của mỗi con người và nó có sức mạnh tiềm tàng mãnh liệt ẩn sâu trong mỗi người. Đạt được Vô Ngã cũng đồng nghĩa với việc cứu độ bá tánh không hề mệt mỏi. Để đạt được những quả vị như Đức Phật, Bồ Tát chúng ta phải hết sức cố gắng tinh cần thanh lọc thân tâm với tất cả tâm hạnh đạo đức bền bỉ từ kiếp này qua kiếp khác. Thông thường chúng ta thích đòi hỏi người khác làm theo ý mình, ít chịu nhường nhịn vì vậy bản ngã ngày càng lớn. Tâm nhu thuận, khiêm cung sẽ giúp chúng ta lắng nghe, học hỏi diệt trừ bản ngã. Người có bản ngã lớn hay đòi hỏi người khác phải tôn trọng mình, nếu không sớm diệt trừ nó sẽ phá tan hết công đức và lý tưởng tu hành.
Vô Ngã là không có cái Ta, không thấy mình khác với mọi người. Các bậc Thánh khi đạt đến trạng thái này sẽ thông đạt hết tất cả bởi Tâm phủ trùm khắp pháp giới. Những bậc Bồ Tát, các bậc Thánh khi đạt đến Vô Ngã thấy mình và chúng sinh là một, họ thương yêu tất cả chúng sinh và sống vị tha quên mình lo cho tất cả. Từ đây các bậc Bồ Tát đủ dũng lực đi vào sinh tử hóa độ chúng sinh không bao giờ mệt mỏi. Vì thế Vô Ngã với Đại Bi là một, Vô Ngã với vị tha là một.
Đối với Đạo Phật thì mục tiêu tu tập của tín đồ là đạt được Vô Ngã, vượt ra khỏi 3 cõi, 6 đường và không còn tái sinh luân hồi nữa . Đây là mục tiêu mà các đệ tử Phật hướng tới. Nếu không hiểu thì dù chúng ta có học thiên kinh vạn quyển và công phu tu tập có sở đắc tâm linh mức độ nào đó thì vẫn còn bị trói buộc trong hình thức ngã chấp khác mà thôi.
Vô Ngã nghĩa là không có thực một bản thể trường tồn bất biến, mọi sự vật do chúng ta cảm nhận bằng những giác quan của mình đều là hư giả, không thực có, chúng đều do nhân duyên tập hợp mà thành. Trong kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật có dạy bản ngã chỉ là một ảo giác do vô minh tạo ra, không có một cái Ta chân thật vĩnh cửu. Tuy nhiên do cấu trúc là một hợp thể bởi yếu tố vật lý cộng với tâm linh mà thành nên chấp ngã trong mỗi chúng sinh rất là sâu kín và mãnh liệt. Cái chấp ngã này cung cấp cho con người cảm giác rằng cái Ta này là thật, rồi xem nó là quan trọng. Tự Ngã này phát sinh những ích kỷ, tham lam, đố kỵ, độc ác và từ đó gây ra biết bao cảnh tang thương, đau khổ cho con người. Do bởi những ác nghiệp đã gây tạo mà con người phải chịu quả báo đau khổ và mãi chìm trầm luân trong luân hồi sinh tử .
Trạng thái Vô Ngã mà Đức Phật đã chứng đạt không phải là hư vô, tịch diệt. Ngài đã trở thành tòan thể vũ trụ, với Tâm từ bi phủ trùm khắp pháp giới. Ngài là trăng sao, là mây gió, là núi sông, là chiếc lá rơi, trở thành chung đồng tất cả, không còn ranh giới phân biệt với chúng sinh. Nơi bản thể tuyệt đối, Đức Phật vẫn âm thầm gia hộ cho tất cả chúng sinh bằng tấm lòng thương yêu vô bờ bến. Đó là Thánh tính cao cả của những bậc Thánh đã đạt được sự Vô Ngã tuyệt đối. Vì hạnh nguyện đó các Ngài đã không quản ngại gian lao nguy khó dấn bước vào luân hồi sinh tử để dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh đến bến bờ giải thoát an lạc. Để diệt trừ chấp ngã chúng ta phải biết tạo nhiều công đức, huân tập thanh lọc thân Tâm, trước hết phải có lòng tôn kính Đức Phật, trãi rộng lòng từ bi, tu tập khiêm hạ, đồng thời xác định lý tưởng tu hành là tìm cầu giải thoát gắn liền với việc hóa độ chúng sinh .
Giáo lý Vô Ngã của Đức Phật đã trải qua hơn 2500 năm, bằng trí tuệ giải thoát tuyệt đối Ngài đã dạy rằng "Trong mỗi chúng sinh không hề có một lõi cứng duy nhất bất biến” và bởi do nhân duyên mà thế giới hình thành hay tan hoại. Đức Phật dạy cái mà ta nhận thức như bất diệt trong ta chỉ là sự phối hợp của các uẩn. Ngài nói rằng do vô minh và ảo tưởng mà con người say mê cái ngã thực thể hiện hữu. Tư tưởng vị kỷ xuất hiện trong Tâm con người là do quan niệm về cái Ta và lòng bám víu vào sự hiện hữu đó.
Trong Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật có nói: " Này các Tỳ Kheo, Sắc không phải là ta, Thọ không phải là ta, Tưởng không phải là ta, Hành không phải là ta, và Thức cũng không phải là ta. Nhận định như vậy, này các Tỳ Kheo, người hành giả không thấy giá trị nào của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Nhận thấy chúng không giá trị hành giả không còn ràng buộc bởi đam mê và sẽ được giải thóat. Sự hiểu biết về giải thóat phát sinh trong tâm tư và hành giả biết mình đã làm xong điều gì cần phải làm, để cuộc sống thánh thiện và không còn trở thành cái này hay cái kia nữa, rằng tái sinh đã bị đoạn diệt "
Đoạn kinh trên nói rất rõ chúng ta thấy cái Ta không có thật, tất cả do duyên hợp nên nó vô thường biến đổi và không tồn tại. Từ đó không có sự tham đắm, không chấp có cũng không chấp không, không chấp thân, không chấp ý cũng như không chấp vào các sở đắc, các trạng thái Định an lạc.
Cái bản ngã được thể hiện qua những hình tướng thô như sự sân hận, ham muốn dục lạc, vật chất chúng ta nhận thấy dễ dàng, còn khi Tâm thanh tịnh thì bản ngã dấu kín hơn, khó thấy hơn. Chúng ta hiểu cái Ngã hay còn gọi là Bản Ngã chính là cái cảm giác làm cho chúng ta phân biệt có ta và người khác nhau. Khi có cảm giác phân biệt với đối tượng khác đã đưa đến sự chấp ngã. Đây chính là khởi điểm tạo thành khuynh hướng ích kỷ và từ khuynh hướng này con người đã tạo nhiều ác nghiệp và bị đẩy vào quả báo.
Trong ta có một thói quen ẩn sâu bên dưới tầng ý thức gọi là tập khí. Tập khí này luôn ở trong ta người ít, kẻ nhiều mà thôi, nó gây hờn giận, phiền não, trầm luân, đẩy ta vào nẻo đường đau khổ. Tập khí là chướng ngại lớn trên đường tu mà người Đạo phải hóa giải qua công phu, rèn luyện, thúc liễm, tinh cần thân tâm.
Để đạt được trạng thái Vô Ngã, đó chính là một kết quả tối thượng đưa con người đến với an lạc hạnh phúc, giải thóat mọi khổ đau ràng buộc. Trí tuệ, Đức hạnh viên mãn nhất trong Phật Pháp chính là Vô Ngã. Một người đạt đến trạng thái giác ngộ phải có hai điều là Trí tuệ & Đức hạnh. Tất cả các giáo Pháp của Đức Phật dù có phát triển thiên kinh vạn quyển tới đâu cũng phải căn cứ trên chuẩn mực Vô Ngã. Người tu theo Đạo Phật lấy Vô Ngã làm mục tiêu để không bị tự mãn hay lạc lối trên đường Đạo.
Con người cứ mãi đau khổ trôi lăn trong 3 cõi, 6 đường và tạo nhiều ác nghiệp cũng đều do chấp ngã mà ra. Do được sinh ra từ sự kết hợp giữa nghiệp thức tâm linh và thể xác nên chấp ngã giống như ảo giác không thật nhưng có khả năng bám giữ, chấp chặt rất mãnh liệt. Biểu hiện của bản ngã là muôn vàn vọng tưởng sinh diệt liên tục với tốc độ cực nhanh đã cung cấp cho con người cảm giác như có thật. Do chưa nhận ra điều đó nên trong cuộc sống chúng ta thường có sự chung đụng xích mích lẫn nhau. Nếu có ai xúc phạm đến thì ta liền dùng mọi lý luận để minh bạch hoặc dùng quyền lực dập tắt đối phương để bảo vệ mình. Từ nơi chấp ngã mãnh liệt này, Tâm ta sẽ xuất hiện thêm những ham muốn về danh lợi, nhà cửa, tài sản, những lợi ích cho thân bằng quyến thuộc gia đình ta v.v... và ý thức bảo vệ những điều này rất mãnh liệt. Tất cả những thứ đó xuất phát từ Tâm vị kỷ và điều này đã ràng buộc chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác vào trong đau khổ bế tắc. Con người bất chấp những thiện ác, đúng sai, phải trái miễn sao đoạt được nhu cầu lợi ích cho cá nhân mình.
Trong Phẩm Hoa ở Kinh Nikaya, Đức Phật xác định trong mỗi vật thể không hề có một lõi cứng tồn tại mãi mãi. Ngài dạy rằng: bất cứ sắc pháp nào dù quá khứ, hiện tại hay vị lai được quán sát với chánh trí như thật, đây không phải là ta, đây không phải là của ta, cho đến sắc thọ tưởng hành thức đều như thế. Nói một cách dễ hiểu là thân và tâm con người do nhiều yếu tố hợp thành, khi hết Duyên sẽ biến đổi tan hoại. Những tình cảm thương ghét, ký ức ghi nhớ đều sanh diệt vô thường, khi sống thì lưu trữ, khi chết thì chuyển sang một trạng thái khác và chịu sực tác động của nhân quả nghiệp báo.
Đức Phật đã tìm ra được con đường giải thoát giác ngộ sau 6 năm khổ hạnh và 49 ngày nhập Đại Định dưới cội cây bồ đề. Ngài đã thoát khỏi luân hồi sanh tử, hòa nhập với vạn vật, sống một đời thánh thiện cao cả an lạc hạnh phúc. Đức Phật đã tìm ra con đường đi đến giải thoát, lập nên một tôn giáo, Ngài là một Vị Giáo Chủ, một bậc Thánh tuyệt đối. Đức Phật lấy việc giáo hóa chúng sinh từ nơi mê lầm về đường giác ngộ, từ đau khổ đến an vui hạnh phúc, thoát khỏi trầm luân sanh tử, là mục tiêu tối thượng trong đời hành Đạo của Ngài. Gíao lý Vô Ngã là thánh tính Niết Bàn, Đức Phật dạy cái ta là đầu mối của mọi sự tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn do chấp ngã mà ra, Vô Ngã là không chấp có cái ta, là cánh cửa dẫn đến an vui hạnh phúc. Trên tinh thần nhân quả hễ mình mang cho người niềm an vui, lợi ích, hạnh phúc thì sẽ được hưởng niềm vui cao thượng nhất. Ngược lại nếu cứ vun quén lo cho riêng mình, tranh danh đoạt lợi thì Tâm sẽ phiền muộn bất an.
Trong lịch sử có rất nhiều gương hạnh các Vị Thánh, Bồ Tát với tâm từ bi rộng lớn thương yêu tất cả chúng sinh. Các Ngài hy sinh chính thân mạng các Ngài để phụng sự, giáo hóa chúng sinh biết được lẽ thật, vượt ra khỏi chốn tăm tối lầm lạc si mê đến bến bờ giác ngộ giải thoát. Vô Ngã với Đại Bi là một, khi một người đạt đến Vô Ngã thì mọi sự phân biệt đây là ta, kia là người, cái chùa này, tôn giáo này là của ta ...sẽ hoàn toàn tan biến, lúc này tâm thể đồng nhất và trùm khắp vũ trụ.
Suốt 45 năm giảng Đạo từ lúc giác ngộ dưới cội Bồ Đề cho đến ngày nhập Niết Bàn, Đức Phật đã dạy rất nhiều điều nhưng cốt lõi nhất là chỉ rõ cuộc đời này vốn khổ đau và dạy phương pháp đoạn trường khổ đau. Phương pháp tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát được rút gọn trong 3 điểm là Giới - Định - Tuệ, là bước tu để đi đến Vô Ngã .
Vô Ngã đồng nghĩa với giải thoát, để đạt đến đó thì phải có công đức vô lượng với một sự cố gắng nỗ lực phi thường. Đức Phật và chư Bồ Tát đã đạt đến đỉnh cao của Tâm Vô Ngã. Các Ngài đã trở thành toàn thể vũ trụ, sống với chúng sinh bằng tình thương đầy ắp, bằng trí tuệ tuyệt vời, nhìn thấy nỗi khổ của nhân loại như của chính mình.
Bản ngã là cái cảm giác làm cho chúng ta thấy mình khác với mọi người xung quanh. Từ trong vô thức, chấp ngã luôn biểu hiện bằng muôn trùng ý niệm sinh diệt liên tục khiến cho mỗi người thấy có một cái ta và những sở hữu thuộc về ta như thật.
Vô Ngã là không còn Bản Ngã, thấy cái ta chỉ là hư ảo. Người chứng được Vô Ngã thì thấy Tâm chung đồng với mọi người, mọi vật, vạn hữu.
Trên cuộc đời này con người ta luôn mưu tìm lợi ích, hạnh phúc cho riêng mình. Động cơ tìm cầu này xuất phát từ lòng ích kỷ và bản năng chấp ngã tiềm tàng sâu kín bên trong. Con người luôn thấy cái ta là quan trọng và luôn tìm cách tôn vinh nó nhưng càng tìm kiếm hạnh phúc vị kỷ cho riêng mình chừng nào thì nỗi bất an phiền muộn sẽ càng lớn theo chừng đó. Về bản chất thì bản ngã không thuộc về thân hay thuộc về Tâm, nó nằm trong sự kết hợp 5 ấm với nhau. Vì thế bản ngã khi ẩn, khi hiện, khi thấy và khi không thấy. Bản ngã của mỗi người có hai phần: phần cạn của bản ngã là phần ý thức được, còn phần sâu nằm tận trong vô thức. Chúng ta biết thân vật chất của con người được tạo thành bởi 4 yếu tố là Tứ Đại (Đất Nước Lửa Gió), đó là phần đơn giản thô mà ai cũng biết. Sự sống của một con người gồm 2 phần là vật chất và tâm linh. Kết hợp 2 yếu tố trên chúng ta gọi chung là ngũ uẩn, trong ngũ uẩn này bản ngã đã có mặt, nó là hợp thể của ngũ uẩn. Bản ngã có mặt ở bất cứ nơi nào trong 5 uẩn. Tùy theo mức độ tu tập của mỗi người mà chúng ta thấy bản ngã ở nơi đâu, tuy nhiên gốc của bản ngã là nằm sâu trong Thức ấm.
Sắc uẩn là phần thể hiện ra bên ngoài như mắt, tai , mũi , lưỡi , thân. Khi những căn này tiếp xúc với trần cảnh nên có sự đối đãi đưa đến cảm giác khổ vui.
Vô Ngã là không còn chấp vào cái ta hư giả tầm thường, đến đây Tâm của hành giả thênh thang hòa vào vũ trụ với lòng từ bi vị tha vô hạn. Chỉ có Chư Thánh, Bồ Tát, Đức Phật mới đạt được hoàn toàn mà thôi. Vô ngã và Vị tha đi đôi vì có đạt đến Vô Ngã thì Vị tha mới tuyệt đối. Như Đức Phật vì lòng từ bi bao la đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, quyền lực cao sang mà nhiều người mong muốn có được. Ngài từ bỏ tất cả quyết tìm ra chân lý để cứu chúng sinh thoát vòng luân hồi sinh tử.
Vô ngã là không hề có một chủ thể bất biến duy nhất trong mỗi chúng sinh. Vô ngã còn là thành quả cao tuyệt đối vượt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử mà Đức Phật cùng Chư Thánh đã chứng đạt được. Trong mỗi chúng sinh thường chấp có hình tướng, có một tự ngã riêng biệt. Như người thì thấy có hình tướng của người, còn vật thì có hình tướng của vật, thế giới có hình tướng của thế giới. Đã chấp có hình tướng của mình thì tất nhiên thấy khác với hình tướng của người, đồng thời thấy cái này là của ta, cái kia là của người. Suy xét ra không có pháp nào là tuyệt đối, mọi sự vật đều không đứng yên, không độc lập tồn tại mà do nhân duyên hợp thành.
Trong kinh Lăng Nghiêm có câu: " Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên ly biệt, hư vọng hữu diệt " nghĩa là tất cả các vật thể có hình tướng như đất đai, sông núi, nhà cửa cho đến thân thể, muôn loài vạn hữu đều do duyên hợp mà thành, không hề có một bản ngã duy nhất cho nên gọi là giả tướng không có thật. Vì vạn vật do nhân duyên hợp thành nên hết duyên là tan hoại.
Vô Ngã là trạng thái chứng quả của những Vị Thánh đã tu tập và làm không biết bao nhiêu công đức trong các kiếp sống quá khứ để đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sinh.
Vô Ngã là một trạng thái đã hoàn toàn thoát khỏi sự trói buộc của các kiết sử và không còn chịu sự tác động của bản ngã nữa.
Người tu tập đạt đến Vô Ngã thì vượt ra khỏi cảm giác chấp ngã, không còn thấy cái tôi riêng biệt bị ràng buộc bởi bản năng của con người. Tính chất siêu việt của trạng thái Vô Ngã mà Chư Phật đã chứng được về định lực là tĩnh lặng tuyệt đối, về trí tuệ là thông đạt tuyệt đối và từ bi là cảm ứng vô biên.
Khi con người bị bản ngã chi phối, con người luôn xử sự theo những bản năng ham sống, sợ chết, tham lam, ích kỷ, vì lợi mình hại người. Từ trong thẳm sâu trong tâm hồn con người, bản ngã luôn cung cấp cảm giác khát khao chiếm hữu tất cả mọi thứ và sẽ bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được những điều mình muốn.
Vô Ngã là một trạng thái nội tâm cực kỳ thanh tịnh và trở thành đồng nhất với bản thể vũ trụ. Nơi đây Tâm Đại Bi và Trí tuệ tuyệt đối phủ trùm tất cả chúng sinh, không còn sự phân cách ranh giới giữa người và ta. Hễ còn tự ngã chi phối thì chúng ta luôn thấy cái tôi riêng biệt khác với mọi người. Sở dĩ chúng ta chưa đi đến Vô Ngã là do trong thâm tâm mỗi người đều tiềm tàng một bản năng chấp ngã mãnh liệt. Do bản năng chấp ngã, những ảo tưởng hư vọng cứ thúc đẩy khiến con người ta sa vào những cạm bẫy, tham đắm, tìm cầu sự hưởng thụ khoái lạc, rồi hơn thua, lường gạt, tranh giành, mưu hại lẫn nhau. Ngay nơi này, nếu chúng ta không tỉnh táo để hóa giải những tư tưởng ngã chấp của mình, chúng ta sẽ rơi vào sự ô nhiễm tràn đầy tội lỗi.
Do những khuynh hướng chấp ngã trên nên chúng ta luôn có những tư tưởng thầm kín thấy thân này là thật và những vật sở hữu của mình có được là của ta. Vì chấp thân này là của ta nên ta luôn cung phụng cho thân này được sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, giàu sang quyền quý. Sâu hơn chấp thân là những sở chấp vào tư tưởng thành kiến, quan điểm, danh vọng địa vị.
Do những chấp ngã mê mờ đó mà một khi bị ai xúc phạm chê bai, chúng ta sẽ buồn bực bất an và tìm cách để bào chữa, hoặc khi được khen ngợi tán thán thì ta vui thích. Chỉ có những ai dám khước từ những ham muốn, dục lạc thế gian mới có đủ Đạo lực để đứng vững và vượt lên con đường giải thoát. Với lý tưởng cao cả vì lợi ích của chúng sinh các bậc hiền Thánh, chư Vị Bồ Tát, chư Phật đã vượt ra khỏi những tham đắm dục lạc thế gian để chứng đạt Vô Ngã giải thoát hoàn toàn. Với tâm nguyện mong muốn tất cả chúng sinh đều đạt được sự giác ngộ, Đức Phật, bậc Bồ Tát đã không quản ngại gian khó dấn thân đi trong luân hồi sinh tử để giáo hóa chúng sinh .
Để hiểu Vô Ngã có biết bao nhiêu vấn đề đặt ra, nếu không có cái ngã thì ai là người cố gắng tu tập, ai tái sinh, ai nhớ, ai giận, ai yêu? Thông thường phàm phu rất sợ ý niệm này bởi cho rằng mình sẽ bị tan biến vào hư vô. Khi chúng ta tu tập chánh niệm vững vàng ta khám phá ra rằng, ta không phải thân này, cảm xúc này, ý tưởng này. Ý thức về cái ngã, cái ta chỉ là một ý niệm, một tạo vật của Tâm thức mà thôi. Nếu không có cái Ta thì tại sao ai cũng tin vào sự hiện hữu của nó. Có một cái Ta không? Chúng ta phải tìm hiểu từ đâu mà xuất hiện ý niệm kiên cố về cái ngã, cái ta này. Nếu tìm kiếm chúng ta sẽ thấy nó vô hình trong suốt linh động nguyên sơ. Trong các loại Tâm thức thì tâm hành (tưởng ấm) có bản chất chấp thủ hết sức mãnh liệt. Chỉ khi nào tri giác được chánh niệm thì chúng ta mới có sự quán chiếu chín chắn sâu sắc và đúng với lẽ thật. Nhờ có tu tập chúng ta hiểu mọi vật trên thế gian đều biến đổi theo lẽ vô thường mà buông bỏ được sự bám víu cố chấp vào thân tâm và sở hữu.
Đức Phật đã diễn tả về trí tuệ Vô Ngã ngắn gọn, súc tích: " Khi nào các ông nhìn thấy một hình sắc, hãy chỉ để có cái thấy; khi các ông nghe một âm thanh, hãy chỉ để cái nghe; khi các ông ngửi một mùi gì, hãy chỉ để cái ngửi; khi các ông nếm một mùi vị nào, hãy chỉ để cái nếm; khi các ông kinh nghiệm cảm giác ở thân, hãy chỉ để cảm thọ ấy; và khi một tư tưởng khởi lên, hãy chỉ có hiện tượng ấy trong tâm mà thôi. Được như vậy không có ngã, không có sự di động từ nơi này sang nơi khác và chẳng có sự dừng lại một nơi nào hết, đó là sự chấm dứt của đau khổ.“
Trong bài Pháp này Đức Phật đã dạy một kinh nghiệm về tu tập Vô Ngã hết sức sống động thiết thực. Chấp Ngã vốn ẩn sâu từ trong vô thức với những tính chất đặc trưng là ích kỷ, loạn động, luôn khát khao chiếm hữu mọi thứ mà không bao giờ thấy thỏa mãn. Tâm bất thiện sẽ phát sinh khi các giác quan tiếp xúc với sự vật bên ngoài và đồng thời tác động trở lại làm bản ngã ngày thêm lớn. Cho nên Phật dạy người tu phải luôn tỉnh giác biết rõ, không cho những tâm bất thiện phát sinh mỗi khi có sự tiếp xúc nơi các giác quan. Điểm đặc biệt của pháp tu này là không ngăn chặn, tiêu diệt mọi sự cảm nhận của các giác quan mà chỉ cần tỉnh giác biết rõ mọi trạng thái đang hiện hữu là tự ngã sẽ bị chận đứng và không còn hoành hành chi phối nữa.
Chúng ta biết các tôn giáo thì cho rằng có một linh hồn, tự ngã trường cửu, Đức Phật thì hùng hồn tuyên thuyết là Vô Ngã. Vào thời nguyên thủy thì chưa nói đến chân tâm, Phật tánh, trong kinh Đại Niết Bàn sau này mới nói đến chân tâm, Phật tánh. Đức Phật cho rằng Vô Ngã là mục tiêu cao hơn tất cả, đó là nơi bản ngã tan biến thành Vô Ngã, là Niết Bàn tuyệt đối.
Vô Ngã là một pháp đặc biệt chỉ có trong Đạo Phật, vì hầu như mọi tôn giáo đều chủ trương một hình thức bản ngã nào đó dưới nhiều tên gọi khác nhau như: Linh hồn, Tiểu ngã, Đại ngã, cái Ta, bổn Tâm, chân Tâm v.v... ngay cả Phật giáo Bắc tông hệ phát triển sau này cũng chủ trương có một thực thể thường hằng bất biến (Chân Tâm, Phật tánh). Theo Đức Phật tuyên thuyết cho dù có hay không có một thực thể vĩnh hằng thì tất cả các pháp đều Vô Ngã. Giáo lý Vô Ngã mà Đức Phật chỉ bày là một sự thật hiển nhiên đối với người đã thấy Pháp, đơn giản chỉ vì các pháp tự thân vốn Vô Ngã, chứ không phải là kết quả của một chuỗi lý luận hay được xác minh bởi những chứng cứ khoa học. Vấn đề không phải là cố chứng minh có ngã hay không mà điều cốt yếu phải thấy ra rằng bao giờ còn có cái Ta ảo hóa của vọng thức thì không bao giờ có được sự tự do tự tại. Hiểu biết được Vô Ngã là vấn đề hết sức quan trọng, giúp người tu tập theo Đạo Phật mở được cánh cửa vào những lời dạy thâm sâu và giải thoát của Đức Phật.
Giáo lý Vô Ngã phủ nhận bất kỳ và tất cả mọi thực thể tâm lý cũng như tác nhân nào ở bên trong con người. Trong nghĩa tuyệt đối mọi hiện tượng kể cả những gì được gọi là một con người đều bao gồm những yếu tố, các lực và một dòng những trạng thái tương tục. Đức Phật đã sắp xếp các hiện tượng ấy thành các nhóm thường gọi là Uẩn như: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi các hiện tượng Tâm và vật lý được phân tích thành các yếu tố hay các Uẩn đó ta không thể tìm thấy một thực thể nào tồn tại còn lại như linh hồn, bản ngã hay cái tôi. Đối với chúng ta cách vận hành của các nhóm Tâm, vật lực và các Uẩn này có vẻ như cái tôi cá nhân nhưng trong thực tế cái tôi hay bản ngã hoặc tác nhân của hành động chỉ là một sự hiện hữu ảo .
Ở mức quy ước cách vận hành của những lực, yếu tố, các Uẩn này được sắp đặt bởi luật nhân quả, mặc dù chúng không cách nào tạo thành cái ngã hay linh hồn. Sự kết hợp phức tạp của các tiến trình Tâm Vật lý hoàn toàn tùy thuộc vào những tiến trình trước, đặc biệt tính liên tục của nghiệp. Như vậy những khác biệt cá nhân đã được giải thích. Một cá nhân có thể là một người sân hận, nóng tính chẳng hạn bởi trong quá khứ anh ta đã thực hiện những hành động để lại những điều kiện cho những nét đặc trưng phân biệt, vốn là những quả của nghiệp nảy sinh trong hiện tại. Song điều này xảy ra là vì nghiệp để lại tiềm lực cho những nét sân hận hay ác ý đó nảy sinh, chứ không phải có một bản ngã nào của con người đang tiếp tục. Thực ra cá nhân con người không tồn tại giống nhau trong 2 sát na liên tiếp. Vạn vật là một chuỗi nối tiếp của những lực và yếu tố, chứ không có gì thực sự tồn tại.
Tất cả những khái niệm của các tôn giáo liên quan đến một cái ngã hay linh hồn thuộc bất kỳ loại nào đã bị Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của nó trong nghĩa tối hậu. Tuy nhiên chúng ta có thể dùng những từ như bản ngã để mô tả một sự sắp xếp đặc biệt của 5 Uẩn vốn cho vẻ bề ngoài không thật của một cá nhân như một bậc A la Hán Ni Vajira thời Đức Phật đã nói:
"Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc cảnh đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai "
Dịch ý là thế này: Chân tâm vốn không phải là một vật thể hiện hữu, chân tâm nó vốn sáng suốt trong trẻo, đừng nhầm nó với chiếc gương mà hằng ngày lau chùi chiếc gương. Giống như người ngắm mình vào chiếc gương, thấy chiếc gương bụi bẩn mà ngỡ tưởng mình bụi bẩn và lại đi hằng ngày lau chiếc gương để mong thấy mình trong sạch hơn. Bản chất của chân tâm vốn không là một vật gì cả thì làm gì có vật nào có thể bám được vào chân tâm mà làm hoen bẩn nó... và do viết bài thơ này mà Lục Tổ Huệ Năng đã được trao Y Bát và là truyền nhân đệ Lục tổ phái Thiền tông Trung hoa và phải lặng lẽ chốn khỏi thiền viện và bị truy sát dáo diết của người bạn đồng môn để hòng đòi lại Y Bát.
Các kinh điển hệ phát triển sau này và các Đại Sư đời sau sự giác ngộ khác với thời Đức Phật . Cũng vì sự chứng ngộ khác biệt nên khi hướng dẫn chúng sinh không còn uyên nguyên trong sáng nguyên thủy như buổi ban đầu. Dù có chứng đắc gì thì chứng chúng ta cũng phải công nhận không ai vượt qua được Đức Phật trong việc thấu suốt chân lý giải thoát.
Nếu ta xem lại các bản kinh cổ thì sẽ không thấy một từ chữ nào nói đến chân tâm, hoàn toàn không có. Trong Tứ Thiền, Cửu Định khi hành giả đạt đến sự tuyệt đối Diệt Tận Định thì Tâm Thức cũng tan biến không còn, bởi bản ngã đã không còn nên các hành giả thấy mình và toàn thể vũ trụ là một. Vô Ngã chính là mục tiêu của Đạo Phật, chúng ta đều biết Kinh Vô Ngã Tướng là bài Pháp thứ hai khi Đức Phật thuyết dưới cội Bồ Đề sau khi Ngài đắc Đạo chánh đẳng chánh giác. Bài Pháp thứ nhất là Kinh chuyển pháp luân ( Tứ Diệu Đế ).
Như vậy trong Đạo Phật thật sự không còn có một chân tâm nào, không còn có một bản ngã nào hiện hữu. Đa phần chúng ta sau này thiên hướng về một chân tâm, một linh hồn không còn như lời Đức Phật dạy nữa. Thật sự không có một cái Ta nào cả, không còn một Ngã nào cả khi hành giả tu tập giác ngộ giáo lý Đạo Phật. Ở đây ta thấy có sự mâu thuẩn giữa lý Không và chân tâm của hệ thống kinh điển phát triển sau này.
Bài pháp Vô Ngã Tướng mà Đức Phật đã tuyên thuyết để hiểu rõ hơn Giáo Pháp của Đức Phật đi đến cùng đích của sự tuyệt đối giác ngộ giải thoát.
Vô Ngã là mục tiêu, cứu cánh của Đạo Phật. Để đạt đến Tâm Vô Ngã hoàn toàn thì chỉ có Đức Phật, bậc Bồ Tát, A La hán mới đạt được cảnh giới này. Sự xuất hiện của Đức Phật là một sự kiện vĩ đại, Ngài đã đem đến luận thuyết siêu việt nhằm xóa tan mọi chấp thủ của con người và mở ra con đường Trung Đạo hầu giúp cho chúng sinh vượt khỏi những trạng thái Tâm Thức hữu hạn và đi đến vô hạn Niết Bàn. Mặc dù Đức Phật đã dọn sẵn con đường giải thoát lý tưởng ấy nhưng không phải ai cũng đủ thắng Phước, phá vỡ lớp vô minh để đi đến đích cuối cùng là Vô Ngã. Hầu hết phàm phu chúng ta đều chấp ngã rất sâu nặng, bị kẹt vào Ngã sở.
Khi sinh ra đời không phải ai cũng may mắn sống trong môi trường thánh thiện cũng như gặp được Minh Sư, Thiện tri thức giúp ta hướng đến những giá trị tâm linh cao quý. Ở đây chính thiện nghiệp tu hành nhiều đời của ta sẽ khiến cho ta có Nhân Duyên gặp gỡ vào thời các Vị Thánh xuất hiện hoằng pháp ở thế gian.
Vô Ngã là gì? Vô là không, Ngã là cái Ta, Bản ngã, Tự Ngã. Như vậy Vô Ngã là không có cái Ta thực thể cố định trong mỗi con người. Thân thể con người là hợp thể của hai thành phần là: sắc thân (vật chất) và tâm linh (tinh thần). Sắc thân do Tứ Đại (đất nước gió lửa) hợp thành. Còn Tâm thì do các yếu tố: Thọ, Tưởng, Hành, Thức và Đức Phật có dạy: Cái gì do nhiều Duyên hợp thành thì không có thực thể.
Hai thành phần vật chất và tâm linh luôn quyện vào nhau và từ đây sinh ra ảo giác về cái Ta rất thật, đồng thời tính cố chấp vào đó rất mãnh liệt cho nên mỗi người đều có cảm giác cái Ta khác với mọi người, mọi vật bên ngoài. Cũng vì cái Ta này mà sinh ra ích kỷ chỉ muốn lợi mình hại người và vô số Tâm bất thiện phát sinh như: kiêu ngạo, đố kỵ, sân hận, tham lam, ác độc v.v..... Vì thế con người chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình một bản năng hưởng thụ, bướng bỉnh, cố chấp, thành kiến, chủ quan, hẹp hòi v.v... Là do chú trọng cái Tôi.
Theo lời Phật dạy trong kinh Vô Ngã Tướng: Bản Ngã này tạo thành do 5 ấm là: Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức đã kết hợp với nhau. Do nhiều Duyên tạo thành như thế nên Bản Ngã không có thực thể và như thế không có cái Ta riêng biệt.
Khi Đức Phật còn tại thế, có vị Tỳ Kheo đã đến hỏi Ngài: " Bạch Thế Tôn nơi mỗi chúng sinh có bản ngã thật sự chăng ? "
Đức Phật trả lời: “Trong mỗi chúng sinh không hề có một tự ngã duy nhất bất biến vĩnh cửu mà được hình thành bởi hợp thể của 5 ấm, giống như trong thân cây chuối không hề có một lõi cứng “.
Chúng ta thường rất coi trọng cái Ta này nên khi bị người khác xúc phạm, coi thường đánh giá thấp thì cái Ta sinh ra bất mãn, buồn bực, chán nản, liều lĩnh, bất chấp hoặc phản đối chống cự . Sự phản đối trở thành một bản năng tự vệ mà không cần biết đúng sai, lý trí con người bị mờ ám và hơn thua, thương ghét cũng từ chấp ngã mà ra. Khi đã chấp ngã thì cho rằng việc làm của ta là hơn, ý nghĩ của ta là đúng, ta là trên hết mọi người. Tuy nhiên kết quả thực tế cho thấy người chấp ngã sâu nặng thường cố chấp nặng nề do đó luôn luôn bị thất bại trong cuộc sống và chuốc lấy phiền muộn khổ đau.
Khi chúng ta theo con đường Phật Đạo là đi tìm sự giác ngộ, giải thoát, vượt khỏi sự chi phối của bản ngã nhưng có được giải thoát hay không là tùy thuộc nhiều vào khả năng buông bỏ những chủ quan, cố chấp, thành kiến của mình .
Do bản ngã sai xử nên con người sống trên đời thường chỉ biết hưởng thụ, tham lam và ích kỷ, do tham đắm dục lạc thế gian mà sinh tội lỗi. Khi đã sa lầy vào tội lỗi thì càng bị Vô minh bao phủ. Ai động chạm đến cái Ta hay bị mất quyền lợi thì sân hận nổi lên mà tạo nghiệp bất thiện. Cái Ta hay Bản Ngã, Tự Ngã là một chướng ngại lớn lao làm giảm giá trị của con người, làm trở ngại trên bước đường tu hành Phật Pháp.
Đức Phật đã dạy chúng ta diệt Bản Ngã để đi đến Vô Ngã hoàn toàn. Khi không hiểu được lẽ Vô Thường của cuộc đời, vạn vật, cây cỏ, con người nên ta xem trọng cái Ngã của mình. Trái đất, vạn vật, thực vật, động vật không tồn tại vĩnh cửu, tất cả đều theo sự tuần hoàn sinh diệt .
Tất cả chúng sinh đều bị bản ngã chi phối do đó đã chịu luân hồi sinh tử trong vô lượng kiếp theo nghiệp đã gây tạo. Đức Phật đã tu tập trong vô lượng kiếp trước, vượt qua bao gian khổ nguy nan với mục tiêu duy nhất là thoát ra khỏi luân hồi sinh tử. Ngài đã hướng mục tiêu này cho mình và cho chúng sinh. Đức Phật đã đạt được sự chứng ngộ tuyệt đối và Ngài hiểu chỉ có Vô Ngã mới làm cho chúng sinh không còn thối đọa trầm luân nữa .
Thông thường chúng ta hay nghĩ rằng hễ nói tới tu hành giải thoát là phải bỏ tất cả, không màng tới bất cứ điều gì khác chỉ việc duy nhất là giữ Tâm sao cho thanh tịnh để mau được đắc Đạo. Tuy nhiên chúng ta không ngờ rằng điều đó tạo nên sự vị kỷ tiềm tàng và con đường dẫn đến giác ngộ đã đóng cửa lại với chúng ta. Vì sao như vậy? Vì chỉ có cuộc sống tràn đầy lòng từ bi, vị tha nhìn thấy những bất an, đau khổ của những người xung quanh để tìm cách cứu giúp cho họ bớt khổ, thêm chút an vui thì mới đúng trên tinh thần của Đạo Phật. Đây cũng là hạnh nguyện của các bậc Bồ Tát dấn thân vào cõi ta bà độ sinh, hoằng Pháp.
Theo lời Đức Phật đã dạy rằng: Tính chất của Thể Tánh Vô Ngã là thông đạt tuyệt đối và tĩnh lặng. Từ nơi này hạnh phúc an lạc của Hành giả là không thể nghĩ bàn. Hạnh phúc ấy không giống như niềm vui xao động, tạm bợ của thế gian mà rất thanh tịnh và sáng suốt, tĩnh lặng. Khi thực hành Pháp Qúan Vô Ngã thấy cái Ta không thật nên sẽ không còn rơi vào bệnh chấp Ngã.
Vô Ngã là giáo lý vô cùng quan trọng trong Đạo Phật, là mục tiêu tối thượng mà người đệ tử Phật hướng đến. Chấp Ngã rất khó vượt qua, nó thầm lặng chi phối sai xử như hơn thua, chỉ trích, đố kỵ, luôn tìm những sơ xuất của người khác trong khi bản thân mình thì không đóng góp điều gì tốt, điều này khiến con người tạo nhiều ác nghiệp.
Con người có hai bản năng rất mạnh là bản năng sinh tồn và hưởng thụ. Bản năng sinh tồn là lúc nào cũng muốn giành giựt, bảo tồn sự sống cho riêng mình. Bản năng hưởng thụ thì luôn luôn khát khao, tìm kiếm những khoái lạc khiến sa đọa nhân cách, làm tổn giảm Phước lực và gây khổ cho bao nhiêu người khác.
Bản ngã đã làm cho con người có ảo giác thấy mình khác với vạn hữu bên ngoài do Tâm Thức ta cùng một lúc có hàng triệu vọng tưởng trùng điệp phát sinh quay cuồng do kết hợp với sự hoạt động của năm uẩn làm ta thấy mình hiện hữu, chứ thật sự không hề có một chủ thể bất biến. Khi cái Ta này hiện hữu thì đồng thời xuất hiện khuynh hướng muốn vượt trội hơn người khác hoặc thấy người khác giỏi hơn mình thì sanh Tâm đố kỵ, ganh ghét, mưu hại. Vì ích kỷ nên ai cũng muốn cá nhân mình được tất cả những gì tốt đẹp, vinh quang, sung sướng, hạnh phúc, thành công v.v... mà bất kể đến đau khổ của người khác hoặc tệ hơn nữa là thích thú trước sự thất bại, sụp đổ của người khác .
Thành quả của việc tu tập Tâm Vô Ngã không đơn giản, trước tiên phải xác định lý tưởng mục tiêu là hướng đến sự giác ngộ, giải thoát. Phải biết sống đời hy sinh, phụng sự, thương yêu trải lòng đến tất cả mọi người. Phải biết tôn kính các bậc Thánh thì mới được làm Thánh, có tôn kính Chư Phật chúng ta mới có nhân giác ngộ giải thoát. Phải biết trải lòng thương yêu đến vạn hữu, biết tôn trọng mọi người với Tâm khiêm tốn tầm thường nhỏ bé của mình.
Tất cả mọi chúng sinh, vạn hữu trên thế gian không ai có thể tự tồn tại độc lập một mình được mà đều có tương quan chặt chẽ với nhau. Sỡ dĩ chúng ta không nhận ra điều này bởi vì chấp ngã đã tạo ra cái Ta riêng biệt khác với mọi người, tạo thành bức tường vô hình ngăn cách giữa người với người.
Chúng ta thường nghe nói tu hành là Tâm bất động không dính mắc gì với cuộc đời, không quan tâm gì đến con người, cứ để duyên đến duyên đi, điều này không đúng với tinh thần Đạo Phật. Tất cả các bậc Bồ Tát hay chúng sinh đang đi trên con đường Bồ Tát Đạo đều phải lụôn lắng nghe, luôn thấu hiểu tâm tư, vướng mắc, hoạn nạn của chúng sinh để tùy Duyên mà cứu độ như là hạnh nguyện của Đại Từ, Đại Bi Qúan Thế Âm Bồ Tát. Khi đạt được Vô Ngã với hạnh nguyện độ sinh, các bậc Đại Bồ Tát đã không quản ngại gian lao nguy khó dấn thân vào trong luân hồi sinh tử để dẫn dắt, giáo hóa, cứu độ chúng sinh khỏi bể trầm luân.
Vô Ngã là Thánh tính của Chư Phật 10 phương, 3 đời và Vô Ngã cũng chính là Niết Bàn tuyệt đối vĩnh hằng. Vô Ngã là gì? Vô Ngã là không có cái Ta chân thật, bởi chúng sinh mê mờ chấp Thân Tâm này là thật, chấp vạn vật là thật trường tồn nên suốt đời bị cuốn hút say đắm vào danh lợi, tiền, tình cho đến gần hết cả cuộc đời mà vẫn chưa tỉnh mộng.
Nhờ giáo lý Đạo Phật soi sáng người Phật tử biết Thân Tâm này do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, sự sống tồn tại trong từng hơi thở sát na và không có cái Ta nào là chắc thật vĩnh cửu. Tất cả là do nhân duyên tồn tại nên hết duyên thì tan hoại, thay ngôi đổi chủ.
Vô Ngã là giáo lý vi diệu của Đạo Phật. Đức Phật của chúng ta đã đạt Vô Ngã giải thoát hoàn toàn với Tâm Đại Bi phủ trùm cả vũ trụ. Trong mỗi chúng sinh đều ẩn sâu một chấp ngã rất mãnh liệt và thường biểu lộ trên nhiều lĩnh vực từ vật chất đến tinh thần, những cảm xúc, niềm vui, hưởng thụ dục lạc với nhiều mức độ khác nhau. Nếu không biết giáo lý của Đức Phật, con người rất dễ bị bản ngã sai xử, lường gạt lôi kéo ta vào những mục đích tầm thường như thích ăn ngon, mặc đẹp, lắm tiền nhiều của, muốn được mọi người nể phục v.v... Cũng vì cung phụng cho cái bản ngã, cái Ta này mà con người đã tạo ra không biết bao nhiêu lỗi lầm, nghiệp chướng để rồi chìm đắm trong vòng luân hồi sinh tử.
Tất cả những hạnh phúc, vui tươi hay đau khổ của con người, nó là kết quả trung thành bởi những hành động của con người gây ra mà Tâm là chủ tạo tác. Thật vậy tất cả chúng ta không ai muốn mình đau khổ, ai cũng muốn sống hạnh phúc. Đau khổ là kết quả của những hành động sai lầm và bất thiện. Hạnh phúc là kết quả đơm bông kết trái của việc làm tốt đẹp. Muốn lọai bỏ điều xấu và làm điều tốt ta sẽ bắt đầu thâm nhập giáo lý Đạo Phật để chuyển hóa nội tâm, để có những suy nghĩ, lời nói, việc làm tốt đẹp đúng Đạo lý. Tâm là nguồn gốc của mọi hành vi và lời nói bên ngoài, kiểm soát được Tâm là nắm được giềng mối Đạo Đức, công hạnh. Người có trí tuệ trong Đạo Phật không phải là người có hiểu biết cao siêu, tiên đoán quá khứ vị lai mà chính là người biết xoay chuyển, hóa giải những ý niệm bất thiện nơi chính mình để tránh tạo bất thiện nghiệp và ngày càng thăng tiến về tâm linh. Tâm là nhân duyên chính khiến ta luân hồi nhưng cũng chính Tâm là duyên lớn nhất giúp ta thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Mục tiêu của Đạo Phật là đạt tới Vô Ngã và loài người chúng ta may mắn nhờ lời dạy của Đức Phật mà có khả năng đạt được mục tiêu này.
Vô Ngã là thấy ta cùng vạn hữu đều như nhau và chỉ có những bậc Thánh mới đạt được đỉnh cao này. Để đạt được Vô Ngã rất khó bởi vì trong thẳm sâu ai cũng có chấp ngã rất sâu dầy. Hễ thấy ai hơn mình thì ganh ghét, đố kỵ hoặc ai đụng chạm đến quyền lợi, thể diện ta nổi sân hận tìm cách đáp trả. Nói đến Vô Ngã là nói đến mấu chốt vô cùng quan trọng trong tiến trình tu tập cho bất kỳ những ai đi trên Đạo lộ giải thoát giác ngộ. Giáo lý về Vô Ngã do chính Đức Phật thuyết giảng và chỉ duy nhất được đề cập trong giáo lý Đạo Phật mà thôi.
Nói đến Vô Ngã là nói đến mấu chốt vô cùng quan trọng trong tiến trình tu tập cho những ai đi trên lộ trình giác ngộ giải thoát. Để đạt được Vô Ngã thì điều đầu tiên là phải phải hóa giải hết ngã chấp. Giáo lý Vô Ngã chỉ duy nhất có trong Đạo Phật và không có trong bất cứ tôn giáo nào trên thế giới. Tận trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người chúng ta dù già hay trẻ, nam hay nữ vẫn luôn mong muốn tìm được hạnh phúc. Do đó hễ có được hạnh phúc là nắm giữ để hưởng thụ. Đây chính là bản năng tự nhiên của mỗi con người và nó có sức mạnh tiềm tàng mãnh liệt ẩn sâu trong mỗi người. Đạt được Vô Ngã cũng đồng nghĩa với việc cứu độ bá tánh không hề mệt mỏi. Để đạt được những quả vị như Đức Phật, Bồ Tát chúng ta phải hết sức cố gắng tinh cần thanh lọc thân tâm với tất cả tâm hạnh đạo đức bền bỉ từ kiếp này qua kiếp khác. Thông thường chúng ta thích đòi hỏi người khác làm theo ý mình, ít chịu nhường nhịn vì vậy bản ngã ngày càng lớn. Tâm nhu thuận, khiêm cung sẽ giúp chúng ta lắng nghe, học hỏi diệt trừ bản ngã. Người có bản ngã lớn hay đòi hỏi người khác phải tôn trọng mình, nếu không sớm diệt trừ nó sẽ phá tan hết công đức và lý tưởng tu hành.
Vô Ngã là không có cái Ta, không thấy mình khác với mọi người. Các bậc Thánh khi đạt đến trạng thái này sẽ thông đạt hết tất cả bởi Tâm phủ trùm khắp pháp giới. Những bậc Bồ Tát, các bậc Thánh khi đạt đến Vô Ngã thấy mình và chúng sinh là một, họ thương yêu tất cả chúng sinh và sống vị tha quên mình lo cho tất cả. Từ đây các bậc Bồ Tát đủ dũng lực đi vào sinh tử hóa độ chúng sinh không bao giờ mệt mỏi. Vì thế Vô Ngã với Đại Bi là một, Vô Ngã với vị tha là một.
Đối với Đạo Phật thì mục tiêu tu tập của tín đồ là đạt được Vô Ngã, vượt ra khỏi 3 cõi, 6 đường và không còn tái sinh luân hồi nữa . Đây là mục tiêu mà các đệ tử Phật hướng tới. Nếu không hiểu thì dù chúng ta có học thiên kinh vạn quyển và công phu tu tập có sở đắc tâm linh mức độ nào đó thì vẫn còn bị trói buộc trong hình thức ngã chấp khác mà thôi.
Vô Ngã nghĩa là không có thực một bản thể trường tồn bất biến, mọi sự vật do chúng ta cảm nhận bằng những giác quan của mình đều là hư giả, không thực có, chúng đều do nhân duyên tập hợp mà thành. Trong kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật có dạy bản ngã chỉ là một ảo giác do vô minh tạo ra, không có một cái Ta chân thật vĩnh cửu. Tuy nhiên do cấu trúc là một hợp thể bởi yếu tố vật lý cộng với tâm linh mà thành nên chấp ngã trong mỗi chúng sinh rất là sâu kín và mãnh liệt. Cái chấp ngã này cung cấp cho con người cảm giác rằng cái Ta này là thật, rồi xem nó là quan trọng. Tự Ngã này phát sinh những ích kỷ, tham lam, đố kỵ, độc ác và từ đó gây ra biết bao cảnh tang thương, đau khổ cho con người. Do bởi những ác nghiệp đã gây tạo mà con người phải chịu quả báo đau khổ và mãi chìm trầm luân trong luân hồi sinh tử .
Trạng thái Vô Ngã mà Đức Phật đã chứng đạt không phải là hư vô, tịch diệt. Ngài đã trở thành tòan thể vũ trụ, với Tâm từ bi phủ trùm khắp pháp giới. Ngài là trăng sao, là mây gió, là núi sông, là chiếc lá rơi, trở thành chung đồng tất cả, không còn ranh giới phân biệt với chúng sinh. Nơi bản thể tuyệt đối, Đức Phật vẫn âm thầm gia hộ cho tất cả chúng sinh bằng tấm lòng thương yêu vô bờ bến. Đó là Thánh tính cao cả của những bậc Thánh đã đạt được sự Vô Ngã tuyệt đối. Vì hạnh nguyện đó các Ngài đã không quản ngại gian lao nguy khó dấn bước vào luân hồi sinh tử để dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh đến bến bờ giải thoát an lạc. Để diệt trừ chấp ngã chúng ta phải biết tạo nhiều công đức, huân tập thanh lọc thân Tâm, trước hết phải có lòng tôn kính Đức Phật, trãi rộng lòng từ bi, tu tập khiêm hạ, đồng thời xác định lý tưởng tu hành là tìm cầu giải thoát gắn liền với việc hóa độ chúng sinh .
Giáo lý Vô Ngã của Đức Phật đã trải qua hơn 2500 năm, bằng trí tuệ giải thoát tuyệt đối Ngài đã dạy rằng "Trong mỗi chúng sinh không hề có một lõi cứng duy nhất bất biến” và bởi do nhân duyên mà thế giới hình thành hay tan hoại. Đức Phật dạy cái mà ta nhận thức như bất diệt trong ta chỉ là sự phối hợp của các uẩn. Ngài nói rằng do vô minh và ảo tưởng mà con người say mê cái ngã thực thể hiện hữu. Tư tưởng vị kỷ xuất hiện trong Tâm con người là do quan niệm về cái Ta và lòng bám víu vào sự hiện hữu đó.
Trong Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật có nói: " Này các Tỳ Kheo, Sắc không phải là ta, Thọ không phải là ta, Tưởng không phải là ta, Hành không phải là ta, và Thức cũng không phải là ta. Nhận định như vậy, này các Tỳ Kheo, người hành giả không thấy giá trị nào của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Nhận thấy chúng không giá trị hành giả không còn ràng buộc bởi đam mê và sẽ được giải thóat. Sự hiểu biết về giải thóat phát sinh trong tâm tư và hành giả biết mình đã làm xong điều gì cần phải làm, để cuộc sống thánh thiện và không còn trở thành cái này hay cái kia nữa, rằng tái sinh đã bị đoạn diệt "
Đoạn kinh trên nói rất rõ chúng ta thấy cái Ta không có thật, tất cả do duyên hợp nên nó vô thường biến đổi và không tồn tại. Từ đó không có sự tham đắm, không chấp có cũng không chấp không, không chấp thân, không chấp ý cũng như không chấp vào các sở đắc, các trạng thái Định an lạc.
Cái bản ngã được thể hiện qua những hình tướng thô như sự sân hận, ham muốn dục lạc, vật chất chúng ta nhận thấy dễ dàng, còn khi Tâm thanh tịnh thì bản ngã dấu kín hơn, khó thấy hơn. Chúng ta hiểu cái Ngã hay còn gọi là Bản Ngã chính là cái cảm giác làm cho chúng ta phân biệt có ta và người khác nhau. Khi có cảm giác phân biệt với đối tượng khác đã đưa đến sự chấp ngã. Đây chính là khởi điểm tạo thành khuynh hướng ích kỷ và từ khuynh hướng này con người đã tạo nhiều ác nghiệp và bị đẩy vào quả báo.
Trong ta có một thói quen ẩn sâu bên dưới tầng ý thức gọi là tập khí. Tập khí này luôn ở trong ta người ít, kẻ nhiều mà thôi, nó gây hờn giận, phiền não, trầm luân, đẩy ta vào nẻo đường đau khổ. Tập khí là chướng ngại lớn trên đường tu mà người Đạo phải hóa giải qua công phu, rèn luyện, thúc liễm, tinh cần thân tâm.
Để đạt được trạng thái Vô Ngã, đó chính là một kết quả tối thượng đưa con người đến với an lạc hạnh phúc, giải thóat mọi khổ đau ràng buộc. Trí tuệ, Đức hạnh viên mãn nhất trong Phật Pháp chính là Vô Ngã. Một người đạt đến trạng thái giác ngộ phải có hai điều là Trí tuệ & Đức hạnh. Tất cả các giáo Pháp của Đức Phật dù có phát triển thiên kinh vạn quyển tới đâu cũng phải căn cứ trên chuẩn mực Vô Ngã. Người tu theo Đạo Phật lấy Vô Ngã làm mục tiêu để không bị tự mãn hay lạc lối trên đường Đạo.
Con người cứ mãi đau khổ trôi lăn trong 3 cõi, 6 đường và tạo nhiều ác nghiệp cũng đều do chấp ngã mà ra. Do được sinh ra từ sự kết hợp giữa nghiệp thức tâm linh và thể xác nên chấp ngã giống như ảo giác không thật nhưng có khả năng bám giữ, chấp chặt rất mãnh liệt. Biểu hiện của bản ngã là muôn vàn vọng tưởng sinh diệt liên tục với tốc độ cực nhanh đã cung cấp cho con người cảm giác như có thật. Do chưa nhận ra điều đó nên trong cuộc sống chúng ta thường có sự chung đụng xích mích lẫn nhau. Nếu có ai xúc phạm đến thì ta liền dùng mọi lý luận để minh bạch hoặc dùng quyền lực dập tắt đối phương để bảo vệ mình. Từ nơi chấp ngã mãnh liệt này, Tâm ta sẽ xuất hiện thêm những ham muốn về danh lợi, nhà cửa, tài sản, những lợi ích cho thân bằng quyến thuộc gia đình ta v.v... và ý thức bảo vệ những điều này rất mãnh liệt. Tất cả những thứ đó xuất phát từ Tâm vị kỷ và điều này đã ràng buộc chúng ta từ kiếp này đến kiếp khác vào trong đau khổ bế tắc. Con người bất chấp những thiện ác, đúng sai, phải trái miễn sao đoạt được nhu cầu lợi ích cho cá nhân mình.
Trong Phẩm Hoa ở Kinh Nikaya, Đức Phật xác định trong mỗi vật thể không hề có một lõi cứng tồn tại mãi mãi. Ngài dạy rằng: bất cứ sắc pháp nào dù quá khứ, hiện tại hay vị lai được quán sát với chánh trí như thật, đây không phải là ta, đây không phải là của ta, cho đến sắc thọ tưởng hành thức đều như thế. Nói một cách dễ hiểu là thân và tâm con người do nhiều yếu tố hợp thành, khi hết Duyên sẽ biến đổi tan hoại. Những tình cảm thương ghét, ký ức ghi nhớ đều sanh diệt vô thường, khi sống thì lưu trữ, khi chết thì chuyển sang một trạng thái khác và chịu sực tác động của nhân quả nghiệp báo.
Đức Phật đã tìm ra được con đường giải thoát giác ngộ sau 6 năm khổ hạnh và 49 ngày nhập Đại Định dưới cội cây bồ đề. Ngài đã thoát khỏi luân hồi sanh tử, hòa nhập với vạn vật, sống một đời thánh thiện cao cả an lạc hạnh phúc. Đức Phật đã tìm ra con đường đi đến giải thoát, lập nên một tôn giáo, Ngài là một Vị Giáo Chủ, một bậc Thánh tuyệt đối. Đức Phật lấy việc giáo hóa chúng sinh từ nơi mê lầm về đường giác ngộ, từ đau khổ đến an vui hạnh phúc, thoát khỏi trầm luân sanh tử, là mục tiêu tối thượng trong đời hành Đạo của Ngài. Gíao lý Vô Ngã là thánh tính Niết Bàn, Đức Phật dạy cái ta là đầu mối của mọi sự tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn do chấp ngã mà ra, Vô Ngã là không chấp có cái ta, là cánh cửa dẫn đến an vui hạnh phúc. Trên tinh thần nhân quả hễ mình mang cho người niềm an vui, lợi ích, hạnh phúc thì sẽ được hưởng niềm vui cao thượng nhất. Ngược lại nếu cứ vun quén lo cho riêng mình, tranh danh đoạt lợi thì Tâm sẽ phiền muộn bất an.
Trong lịch sử có rất nhiều gương hạnh các Vị Thánh, Bồ Tát với tâm từ bi rộng lớn thương yêu tất cả chúng sinh. Các Ngài hy sinh chính thân mạng các Ngài để phụng sự, giáo hóa chúng sinh biết được lẽ thật, vượt ra khỏi chốn tăm tối lầm lạc si mê đến bến bờ giác ngộ giải thoát. Vô Ngã với Đại Bi là một, khi một người đạt đến Vô Ngã thì mọi sự phân biệt đây là ta, kia là người, cái chùa này, tôn giáo này là của ta ...sẽ hoàn toàn tan biến, lúc này tâm thể đồng nhất và trùm khắp vũ trụ.
Suốt 45 năm giảng Đạo từ lúc giác ngộ dưới cội Bồ Đề cho đến ngày nhập Niết Bàn, Đức Phật đã dạy rất nhiều điều nhưng cốt lõi nhất là chỉ rõ cuộc đời này vốn khổ đau và dạy phương pháp đoạn trường khổ đau. Phương pháp tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát được rút gọn trong 3 điểm là Giới - Định - Tuệ, là bước tu để đi đến Vô Ngã .
Vô Ngã đồng nghĩa với giải thoát, để đạt đến đó thì phải có công đức vô lượng với một sự cố gắng nỗ lực phi thường. Đức Phật và chư Bồ Tát đã đạt đến đỉnh cao của Tâm Vô Ngã. Các Ngài đã trở thành toàn thể vũ trụ, sống với chúng sinh bằng tình thương đầy ắp, bằng trí tuệ tuyệt vời, nhìn thấy nỗi khổ của nhân loại như của chính mình.
Bản ngã là cái cảm giác làm cho chúng ta thấy mình khác với mọi người xung quanh. Từ trong vô thức, chấp ngã luôn biểu hiện bằng muôn trùng ý niệm sinh diệt liên tục khiến cho mỗi người thấy có một cái ta và những sở hữu thuộc về ta như thật.
Vô Ngã là không còn Bản Ngã, thấy cái ta chỉ là hư ảo. Người chứng được Vô Ngã thì thấy Tâm chung đồng với mọi người, mọi vật, vạn hữu.
Trên cuộc đời này con người ta luôn mưu tìm lợi ích, hạnh phúc cho riêng mình. Động cơ tìm cầu này xuất phát từ lòng ích kỷ và bản năng chấp ngã tiềm tàng sâu kín bên trong. Con người luôn thấy cái ta là quan trọng và luôn tìm cách tôn vinh nó nhưng càng tìm kiếm hạnh phúc vị kỷ cho riêng mình chừng nào thì nỗi bất an phiền muộn sẽ càng lớn theo chừng đó. Về bản chất thì bản ngã không thuộc về thân hay thuộc về Tâm, nó nằm trong sự kết hợp 5 ấm với nhau. Vì thế bản ngã khi ẩn, khi hiện, khi thấy và khi không thấy. Bản ngã của mỗi người có hai phần: phần cạn của bản ngã là phần ý thức được, còn phần sâu nằm tận trong vô thức. Chúng ta biết thân vật chất của con người được tạo thành bởi 4 yếu tố là Tứ Đại (Đất Nước Lửa Gió), đó là phần đơn giản thô mà ai cũng biết. Sự sống của một con người gồm 2 phần là vật chất và tâm linh. Kết hợp 2 yếu tố trên chúng ta gọi chung là ngũ uẩn, trong ngũ uẩn này bản ngã đã có mặt, nó là hợp thể của ngũ uẩn. Bản ngã có mặt ở bất cứ nơi nào trong 5 uẩn. Tùy theo mức độ tu tập của mỗi người mà chúng ta thấy bản ngã ở nơi đâu, tuy nhiên gốc của bản ngã là nằm sâu trong Thức ấm.
Sắc uẩn là phần thể hiện ra bên ngoài như mắt, tai , mũi , lưỡi , thân. Khi những căn này tiếp xúc với trần cảnh nên có sự đối đãi đưa đến cảm giác khổ vui.
Vô Ngã là không còn chấp vào cái ta hư giả tầm thường, đến đây Tâm của hành giả thênh thang hòa vào vũ trụ với lòng từ bi vị tha vô hạn. Chỉ có Chư Thánh, Bồ Tát, Đức Phật mới đạt được hoàn toàn mà thôi. Vô ngã và Vị tha đi đôi vì có đạt đến Vô Ngã thì Vị tha mới tuyệt đối. Như Đức Phật vì lòng từ bi bao la đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, quyền lực cao sang mà nhiều người mong muốn có được. Ngài từ bỏ tất cả quyết tìm ra chân lý để cứu chúng sinh thoát vòng luân hồi sinh tử.
Vô ngã là không hề có một chủ thể bất biến duy nhất trong mỗi chúng sinh. Vô ngã còn là thành quả cao tuyệt đối vượt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử mà Đức Phật cùng Chư Thánh đã chứng đạt được. Trong mỗi chúng sinh thường chấp có hình tướng, có một tự ngã riêng biệt. Như người thì thấy có hình tướng của người, còn vật thì có hình tướng của vật, thế giới có hình tướng của thế giới. Đã chấp có hình tướng của mình thì tất nhiên thấy khác với hình tướng của người, đồng thời thấy cái này là của ta, cái kia là của người. Suy xét ra không có pháp nào là tuyệt đối, mọi sự vật đều không đứng yên, không độc lập tồn tại mà do nhân duyên hợp thành.
Trong kinh Lăng Nghiêm có câu: " Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên ly biệt, hư vọng hữu diệt " nghĩa là tất cả các vật thể có hình tướng như đất đai, sông núi, nhà cửa cho đến thân thể, muôn loài vạn hữu đều do duyên hợp mà thành, không hề có một bản ngã duy nhất cho nên gọi là giả tướng không có thật. Vì vạn vật do nhân duyên hợp thành nên hết duyên là tan hoại.
Vô Ngã là trạng thái chứng quả của những Vị Thánh đã tu tập và làm không biết bao nhiêu công đức trong các kiếp sống quá khứ để đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sinh.
Vô Ngã là một trạng thái đã hoàn toàn thoát khỏi sự trói buộc của các kiết sử và không còn chịu sự tác động của bản ngã nữa.
Người tu tập đạt đến Vô Ngã thì vượt ra khỏi cảm giác chấp ngã, không còn thấy cái tôi riêng biệt bị ràng buộc bởi bản năng của con người. Tính chất siêu việt của trạng thái Vô Ngã mà Chư Phật đã chứng được về định lực là tĩnh lặng tuyệt đối, về trí tuệ là thông đạt tuyệt đối và từ bi là cảm ứng vô biên.
Khi con người bị bản ngã chi phối, con người luôn xử sự theo những bản năng ham sống, sợ chết, tham lam, ích kỷ, vì lợi mình hại người. Từ trong thẳm sâu trong tâm hồn con người, bản ngã luôn cung cấp cảm giác khát khao chiếm hữu tất cả mọi thứ và sẽ bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được những điều mình muốn.
Vô Ngã là một trạng thái nội tâm cực kỳ thanh tịnh và trở thành đồng nhất với bản thể vũ trụ. Nơi đây Tâm Đại Bi và Trí tuệ tuyệt đối phủ trùm tất cả chúng sinh, không còn sự phân cách ranh giới giữa người và ta. Hễ còn tự ngã chi phối thì chúng ta luôn thấy cái tôi riêng biệt khác với mọi người. Sở dĩ chúng ta chưa đi đến Vô Ngã là do trong thâm tâm mỗi người đều tiềm tàng một bản năng chấp ngã mãnh liệt. Do bản năng chấp ngã, những ảo tưởng hư vọng cứ thúc đẩy khiến con người ta sa vào những cạm bẫy, tham đắm, tìm cầu sự hưởng thụ khoái lạc, rồi hơn thua, lường gạt, tranh giành, mưu hại lẫn nhau. Ngay nơi này, nếu chúng ta không tỉnh táo để hóa giải những tư tưởng ngã chấp của mình, chúng ta sẽ rơi vào sự ô nhiễm tràn đầy tội lỗi.
Do những khuynh hướng chấp ngã trên nên chúng ta luôn có những tư tưởng thầm kín thấy thân này là thật và những vật sở hữu của mình có được là của ta. Vì chấp thân này là của ta nên ta luôn cung phụng cho thân này được sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, giàu sang quyền quý. Sâu hơn chấp thân là những sở chấp vào tư tưởng thành kiến, quan điểm, danh vọng địa vị.
Do những chấp ngã mê mờ đó mà một khi bị ai xúc phạm chê bai, chúng ta sẽ buồn bực bất an và tìm cách để bào chữa, hoặc khi được khen ngợi tán thán thì ta vui thích. Chỉ có những ai dám khước từ những ham muốn, dục lạc thế gian mới có đủ Đạo lực để đứng vững và vượt lên con đường giải thoát. Với lý tưởng cao cả vì lợi ích của chúng sinh các bậc hiền Thánh, chư Vị Bồ Tát, chư Phật đã vượt ra khỏi những tham đắm dục lạc thế gian để chứng đạt Vô Ngã giải thoát hoàn toàn. Với tâm nguyện mong muốn tất cả chúng sinh đều đạt được sự giác ngộ, Đức Phật, bậc Bồ Tát đã không quản ngại gian khó dấn thân đi trong luân hồi sinh tử để giáo hóa chúng sinh .
Để hiểu Vô Ngã có biết bao nhiêu vấn đề đặt ra, nếu không có cái ngã thì ai là người cố gắng tu tập, ai tái sinh, ai nhớ, ai giận, ai yêu? Thông thường phàm phu rất sợ ý niệm này bởi cho rằng mình sẽ bị tan biến vào hư vô. Khi chúng ta tu tập chánh niệm vững vàng ta khám phá ra rằng, ta không phải thân này, cảm xúc này, ý tưởng này. Ý thức về cái ngã, cái ta chỉ là một ý niệm, một tạo vật của Tâm thức mà thôi. Nếu không có cái Ta thì tại sao ai cũng tin vào sự hiện hữu của nó. Có một cái Ta không? Chúng ta phải tìm hiểu từ đâu mà xuất hiện ý niệm kiên cố về cái ngã, cái ta này. Nếu tìm kiếm chúng ta sẽ thấy nó vô hình trong suốt linh động nguyên sơ. Trong các loại Tâm thức thì tâm hành (tưởng ấm) có bản chất chấp thủ hết sức mãnh liệt. Chỉ khi nào tri giác được chánh niệm thì chúng ta mới có sự quán chiếu chín chắn sâu sắc và đúng với lẽ thật. Nhờ có tu tập chúng ta hiểu mọi vật trên thế gian đều biến đổi theo lẽ vô thường mà buông bỏ được sự bám víu cố chấp vào thân tâm và sở hữu.
Đức Phật đã diễn tả về trí tuệ Vô Ngã ngắn gọn, súc tích: " Khi nào các ông nhìn thấy một hình sắc, hãy chỉ để có cái thấy; khi các ông nghe một âm thanh, hãy chỉ để cái nghe; khi các ông ngửi một mùi gì, hãy chỉ để cái ngửi; khi các ông nếm một mùi vị nào, hãy chỉ để cái nếm; khi các ông kinh nghiệm cảm giác ở thân, hãy chỉ để cảm thọ ấy; và khi một tư tưởng khởi lên, hãy chỉ có hiện tượng ấy trong tâm mà thôi. Được như vậy không có ngã, không có sự di động từ nơi này sang nơi khác và chẳng có sự dừng lại một nơi nào hết, đó là sự chấm dứt của đau khổ.“
Trong bài Pháp này Đức Phật đã dạy một kinh nghiệm về tu tập Vô Ngã hết sức sống động thiết thực. Chấp Ngã vốn ẩn sâu từ trong vô thức với những tính chất đặc trưng là ích kỷ, loạn động, luôn khát khao chiếm hữu mọi thứ mà không bao giờ thấy thỏa mãn. Tâm bất thiện sẽ phát sinh khi các giác quan tiếp xúc với sự vật bên ngoài và đồng thời tác động trở lại làm bản ngã ngày thêm lớn. Cho nên Phật dạy người tu phải luôn tỉnh giác biết rõ, không cho những tâm bất thiện phát sinh mỗi khi có sự tiếp xúc nơi các giác quan. Điểm đặc biệt của pháp tu này là không ngăn chặn, tiêu diệt mọi sự cảm nhận của các giác quan mà chỉ cần tỉnh giác biết rõ mọi trạng thái đang hiện hữu là tự ngã sẽ bị chận đứng và không còn hoành hành chi phối nữa.
Chúng ta biết các tôn giáo thì cho rằng có một linh hồn, tự ngã trường cửu, Đức Phật thì hùng hồn tuyên thuyết là Vô Ngã. Vào thời nguyên thủy thì chưa nói đến chân tâm, Phật tánh, trong kinh Đại Niết Bàn sau này mới nói đến chân tâm, Phật tánh. Đức Phật cho rằng Vô Ngã là mục tiêu cao hơn tất cả, đó là nơi bản ngã tan biến thành Vô Ngã, là Niết Bàn tuyệt đối.
Vô Ngã là một pháp đặc biệt chỉ có trong Đạo Phật, vì hầu như mọi tôn giáo đều chủ trương một hình thức bản ngã nào đó dưới nhiều tên gọi khác nhau như: Linh hồn, Tiểu ngã, Đại ngã, cái Ta, bổn Tâm, chân Tâm v.v... ngay cả Phật giáo Bắc tông hệ phát triển sau này cũng chủ trương có một thực thể thường hằng bất biến (Chân Tâm, Phật tánh). Theo Đức Phật tuyên thuyết cho dù có hay không có một thực thể vĩnh hằng thì tất cả các pháp đều Vô Ngã. Giáo lý Vô Ngã mà Đức Phật chỉ bày là một sự thật hiển nhiên đối với người đã thấy Pháp, đơn giản chỉ vì các pháp tự thân vốn Vô Ngã, chứ không phải là kết quả của một chuỗi lý luận hay được xác minh bởi những chứng cứ khoa học. Vấn đề không phải là cố chứng minh có ngã hay không mà điều cốt yếu phải thấy ra rằng bao giờ còn có cái Ta ảo hóa của vọng thức thì không bao giờ có được sự tự do tự tại. Hiểu biết được Vô Ngã là vấn đề hết sức quan trọng, giúp người tu tập theo Đạo Phật mở được cánh cửa vào những lời dạy thâm sâu và giải thoát của Đức Phật.
Giáo lý Vô Ngã phủ nhận bất kỳ và tất cả mọi thực thể tâm lý cũng như tác nhân nào ở bên trong con người. Trong nghĩa tuyệt đối mọi hiện tượng kể cả những gì được gọi là một con người đều bao gồm những yếu tố, các lực và một dòng những trạng thái tương tục. Đức Phật đã sắp xếp các hiện tượng ấy thành các nhóm thường gọi là Uẩn như: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi các hiện tượng Tâm và vật lý được phân tích thành các yếu tố hay các Uẩn đó ta không thể tìm thấy một thực thể nào tồn tại còn lại như linh hồn, bản ngã hay cái tôi. Đối với chúng ta cách vận hành của các nhóm Tâm, vật lực và các Uẩn này có vẻ như cái tôi cá nhân nhưng trong thực tế cái tôi hay bản ngã hoặc tác nhân của hành động chỉ là một sự hiện hữu ảo .
Ở mức quy ước cách vận hành của những lực, yếu tố, các Uẩn này được sắp đặt bởi luật nhân quả, mặc dù chúng không cách nào tạo thành cái ngã hay linh hồn. Sự kết hợp phức tạp của các tiến trình Tâm Vật lý hoàn toàn tùy thuộc vào những tiến trình trước, đặc biệt tính liên tục của nghiệp. Như vậy những khác biệt cá nhân đã được giải thích. Một cá nhân có thể là một người sân hận, nóng tính chẳng hạn bởi trong quá khứ anh ta đã thực hiện những hành động để lại những điều kiện cho những nét đặc trưng phân biệt, vốn là những quả của nghiệp nảy sinh trong hiện tại. Song điều này xảy ra là vì nghiệp để lại tiềm lực cho những nét sân hận hay ác ý đó nảy sinh, chứ không phải có một bản ngã nào của con người đang tiếp tục. Thực ra cá nhân con người không tồn tại giống nhau trong 2 sát na liên tiếp. Vạn vật là một chuỗi nối tiếp của những lực và yếu tố, chứ không có gì thực sự tồn tại.
Tất cả những khái niệm của các tôn giáo liên quan đến một cái ngã hay linh hồn thuộc bất kỳ loại nào đã bị Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của nó trong nghĩa tối hậu. Tuy nhiên chúng ta có thể dùng những từ như bản ngã để mô tả một sự sắp xếp đặc biệt của 5 Uẩn vốn cho vẻ bề ngoài không thật của một cá nhân như một bậc A la Hán Ni Vajira thời Đức Phật đã nói:
" Các bộ phận có mặt
Tên " chiếc xe " được dùng
Cũng vậy có 5 uẩn
Ta gọi là " chúng sinh "
Tên " chiếc xe " được dùng
Cũng vậy có 5 uẩn
Ta gọi là " chúng sinh "
Giáo lý Vô Ngã do Đức Phật dạy từ cái nhìn
trí tuệ của một bậc Toàn giác, một cái nhìn vốn thấy vạn pháp đều Vô Ngã. Giáo
lý Vô Ngã là một trong những giáo lý quan trọng nhất của Đạo Phật, nó làm cho
Đạo Phật khác với các tôn giáo khác. Trong khi các tôn giáo khác đều chấp nhận
sự hiện hữu của một thực thể tinh thần sịêu hình, sự hiện hữu của một linh hồn
hay bản ngã.
A Dictionnary of Mind anh Spirit (Page 314 ) : " Trong các tôn giáo chính của thế giới, chỉ duy nhất Đạo Phật phủ nhận hay bất khả tri về sự hiện hữu của một linh hồn " .
Theo giáo lý Thiên Chúa thì mỗi linh hồn sẽ bị xét xử vào ngày tận thế ...chính linh hồn là cái sẽ quyết định cá nhân ấy hoặc bị trừng phạt ở hỏa ngục hoặc được ban thưởng một cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Đàng ...còn Đạo Phật dạy rằng không có gì được xem là linh hồn hay cái ngã thực và thường hằng như vậy. Đạo Phật là tôn giáo chính duy nhất phủ nhận sự hiện hữu của một thực thể siêu hình được gọi là bản ngã hay linh hồn.
Giáo lý Vô Ngã luôn là trung tâm của tranh luận Phật Giáo, có thể xác quyết chính Đức Phật Thích Ca đã lấy nó làm một trong những điểm chính yếu của Giáo Pháp. Phần lớn các nhà Phật giáo Bắc tông sau này đều công nhận giáo lý Vô Ngã nhưng về sau các trường phái Phật giáo Bắc tông do các chư Tổ xiển dương đã trôi dạt vào một học thuyết giống như bản ngã vậy (Phật tánh, chân tâm), điều này không còn đúng với tinh thần nguyên thủy theo lời dạy của Đức Phật là Vô Ngã. Những tranh luận về giáo lý Vô Ngã dường như dựa trên một sự sợ hãi sâu xa về việc phủ nhận sự hiện hữu của một linh hồn. Người ta thường bám chấp rất mãnh liệt vào thân tâm, rất quý sự sống của họ vì thế họ thích tin rằng phải có một cái gì đó như linh hồn trường cữu bất diệt và thường hằng bên trong họ. Khi Đức Phật nói không có cái gì thường hằng trong họ, không có cái gì như một linh hồn nhờ đó họ sẽ tiếp tục sống đời đời, điều này làm họ trở nên khiếp sợ. Họ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với họ trong tương lai, họ mang nỗi sợ hãi về sự diệt vong. Đức Phật rất hiểu điều này, chúng ta có thể thấy qua câu chuyện sau đây:
Vacchagotta là một du sĩ ngoại đạo, một lần nọ đi đến gặp Đức Phật để đàm luận về một số vấn đề quan trọng. Ông Vacchagotta hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, có Tự Ngã không? “. Đức Phật giữ im lặng. Sau khi Vacchagotta bỏ đi, Đức Phật giải thích cho thị giả A Nan lý do tại sao Phật đã giữ im lặng.
Đức Phật giải thích: Ngài biết rằng Vacchagotta rất lầm lẫn trong ý tưởng của ông về Tự Ngã (Linh hồn). Nếu Ta trả lời là có Tự Ngã, thời Ta sẽ cho là đang trình bày quan điểm của những người thường kiến, chủ trương có cái Ngã thường hằng, điều mà Ta không đồng ý. Nhưng nếu Ta nói rằng không có Tự Ngã thời Vacchagotta nghĩ rằng Ta trình bày quan điểm của những người đoạn kiến, cho rằng con người không là gì cả sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn vào lúc chết. Bởi lẽ quan điểm sau phủ nhận Nghiệp, tái sanh và Duyên khởi nên Đức Phật cũng không đồng ý với quan kiến này.
Thật sự Đức Phật dạy rằng con người tái sanh với “Thức hay Tâm tục sinh “. Một cái Thức tái sinh vốn không chuyển đi từ kiếp sống trước nhưng đi vào hiện hữu nhờ những điều kiện trong những kiếp sống trước như là Nghiệp chẳng hạn. Như vậy người tái sinh không phải là một với người đã chết và người tái sinh cũng không hoàn toàn khác với người đã chết. Điều quan trọng hơn cả là không có thực thể siêu hình, không có linh hồn, không có loại bản ngã tinh thần nào tiếp tục từ một hiện hữu này đến một hiện hữu khác. Nhưng lời dạy này lại quá khó đối với Vacchagotta nên Ngài đợi đến một thời điểm thích hợp, Ngài dẫn Đạo tùy theo căn cơ, hoàn cảnh của con người, vì lợi ích của họ. Sau này Vacchagotta nhận ra tính chất Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của các Pháp và đắc Đạo thành một bậc A La Hán.
Trước khi Đức Phật xuất hiện ở thế gian này thì Bà La Môn giáo hay Ấn Độ giáo đã thịnh hành ở đất nước Ấn Độ. Bà La Môn giáo dạy giáo lý về sự hiện hữu của Linh hồn hay Tự ngã. Khi Đức Phật xuất hiện Ngài tuyên bố không có Linh hồn. Giáo lý Vô Ngã này quan trọng đến mức chỉ 5 ngày sau khi thuyết bài Pháp đầu tiên Tứ Thánh Đế thì Đức Phật đã công bố giáo lý Vô Ngã này. Khi 5 anh em Thánh Tăng Kiều Trần Như nghe bài Pháp Vô Ngã này đến cuối bài Pháp đều đắc quả vị A La Hán.
Linh hồn là cái gì mà Đức Phật phủ nhận? Theo Ấn Giáo thì Linh hồn là cái lõi bên trong của bất kỳ vật gì hàm ý là sự tồn tại lâu dài. Cái lõi cũng hàm ý là cái tốt nhất của một vật gì được xem là tinh chất, trong sạch, chân thật, bền lâu. Một ý nghĩa khác của Linh hồn là quyền lực làm cho những người khác phải tuân theo mệnh lệnh. Linh hồn là người có quyền lực cao nhất và được xem là ông chủ của chính nó. Linh hồn còn là tác nhân của hành động làm mọi sự tốt hay xấu. Trong một nghĩa khác của Linh hồn theo kinh điển Ấn Giáo là cái Ngã cá nhân đồng nhất với cái Ngã vũ trụ, Đấng tối cao hay còn gọi là Phạm Thiên cư trú trong mọi người và trong mọi hữu tình chúng sinh. Theo lý luận này thì giải thoát là Tự Ngã đồng nhất với bản thể vũ trụ hay Phạm Thiên.
Đức Phật đã phủ nhận thuyết Linh hồn của Ấn Giáo. Theo Đức Phật không có gì chúng ta có thể gọi là một cái lõi bên trong vĩnh hằng và hạnh phúc như vậy và cũng không có gì chúng ta có thể kêu cầu để vận dụng quyền lực của họ đối với bản chất của các Pháp. Trong Đạo Phật không có người làm hay người tác nghiệp ngoài nghiệp và cũng không có người cảm thọ ngoài cảm thọ. Không có cái gì hoặc không có người nào có quyền lực tuyệt đối vì vạn hữu, vạn vật đều phó mặc cho sự sáng tạo và hoại diệt không ngừng của các Pháp hữu vi. Đức Phật dạy rằng chỉ có 5 Uẩn kết hợp (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), nếu nói chuyên biệt hơn chỉ có Tâm và Thân hay Danh và Sắc. Ngoài Thân và Tâm không có bất cứ cái gì khác hiện hữu để chúng ta có thể gọi là Linh hồn. Pháp duy nhất tồn tại ngoài lĩnh vực Danh và Sắc là Niết Bàn giới Vô Vi, là chân lý tuyệt đối nhưng ngay cả Niết Bàn cũng là Vô Ngã.
Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) chúng ta thấy có câu chuyện kể về một Du sĩ ngoại đạo rất nổi tiếng tên là Saccaka. Một hôm ông ta nghe Đức Phật dạy về giáo lý Vô Ngã, vì lẽ ông ta là một nhà biện tài rất sắc bén, ông quyết định sẽ đi gặp Đức Phật để thuyết phục Ngài rằng giáo lý Vô Ngã là sai lầm. Ông Saccaka cảm thấy rất tự tin và ông tuyên bố rằng nếu ông có tranh luận với một cột trụ đá thì trụ đá ấy sẽ toát mồ hôi vì sợ. Ông còn nói ví như một lực sĩ nắm lấy một con dê và quay nó quanh vai mình như thế nào, ông cũng sẽ nắm lấy sa môn Thích Ca mà xoay như vậy trong cuộc tranh luận.
Saccaka và những đệ tử của ông đến gặp Đức Phật và chào hỏi Ngài. Sau đó ông mời Đức Phật giải thích về giáo lý mà Ngài đã dạy. Đức Phật trả lời rằng Ngài dạy Vô Ngã. Ông Saccka nói ngược lại là: “có Ngã , 5 Uẩn là Tự Ngã. "
Đức Phật nói: “Ông có thật sự cho rằng sắc uẩn là Tự Ngã không?
Saccaka vốn xấu trai nên nếu ông nói rằng sắc (thân) là Tự Ngã thì Đức Phật sẽ hỏi ngược lại: “Vậy thì tại sao ông không làm cho diện mạo mình đẹp trai lên đi?”
Thế là Saccaka buộc phải nói Sắc thân không phải là Tự Ngã.
Ở đây chúng ta thấy Đức Phật đánh đổ một số đặc điểm được người ta cho là Tự Ngã. Nếu Saccaka có một Tự Ngã, thì ông có thể kêu gọi nó vận dụng quyền lực, sức mạnh để thay đổi diện mạo của ông. Vì suy cho cùng Tự Ngã đồng nhất với Đại Ngã tức cái Ngã vũ trụ, Đấng sáng tạo quyền năng vô tận, nguồn cội của vạn vật thế gian. Tuy nhiên Đức Phật cho biết chỉ có 5 Uẩn hiện hữu và 5 Uẩn này không phải là Linh hồn hay Tự Ngã bởi vì chúng phải tuân theo những quy luật của vô thường, khổ, vô ngã. Sắc không phải là linh hồn, nó không phải là ông chủ và người cai trị của chính nó, nó còn phải chịu sự đau khổ. Các Uẩn khác như Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng phải theo những quy luật như vậy. Do đó Saccaka đã bị đánh bại.
Trong bài kinh Vô Ngã Tướng (Anatta Lakkana Sutta), Đức Phật có nói:
"Ví như một con rối làm bằng gỗ, mặc dù không thực chất, không có sự sống và không hoạt động, song bằng cách kéo những sợi dây người ta có thể làm cho nó cử động, đứng lên, ngồi xuống và có vẻ như đầy sức sống và hoạt động. Tâm và Thân này cũng vậy là một cái gì đó rỗng không, không có sự sống và không hoạt động nhưng nhờ sự vận hành hỗ tương của chúng với nhau do nghiệp, sự kết hợp tâm vật lý này có thể chuyển động, và có vẻ như đầy sự sống hoạt động.“
Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật mô tả sự tin tưởng nơi Tự Ngã (Linh hồn) như một ý tưởng dẫn đến sự vị kỷ và ngã mạn:
“Như Lai thoát khỏi mọi tà kiến vì Như Lai đã thấy Sắc là gì, và Sắc sanh và diệt như thế nào. Như Lai đã thấy Thọ ...Tưởng ...Hành ...Thức là gì và chúng sanh và diệt như thế nào. Do đó Như Lai nói rằng với sự đoạn trừ, đoạn diệt, biến mất, xả bỏ tất cả mọi ảo tưởng, mọi phỏng đoán, mọi khuynh hướng đối với tính tự đắc về "Ta" và sở hữu "của Ta" mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn. "
Nam Mô A Di Đà Phật
Chúng ta có thể đi đến kết luận bằng việc giải thích một lời tuyên bố rất quan trọng Vô Ngãi Giải Đạo và trong Nikaya. Câu đầu tiên có nghĩa: “Các Pháp hữu vi là vô thường “. Câu thứ hai có nghĩa: “Các Pháp hữu vi là khổ “. Tuy nhiên câu thứ ba lại khác là: “Tất cả các Pháp hữu vi cũng như vô vi đều Vô Ngã “. Do đó ngay cả Niết Bàn vốn là vô vi cũng không phải là Tiểu Ngã hay Đại Ngã. Lời tuyên bố của Đức Phật rõ ràng xác quyết, phủ nhận bất kỳ linh hồn nào, ngay cả trong chân lý cùng tột tuyệt đối của sự giác ngộ, ngay cả trong Niết Bàn vĩnh hằng cũng vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Dictionnary of Mind anh Spirit (Page 314 ) : " Trong các tôn giáo chính của thế giới, chỉ duy nhất Đạo Phật phủ nhận hay bất khả tri về sự hiện hữu của một linh hồn " .
Theo giáo lý Thiên Chúa thì mỗi linh hồn sẽ bị xét xử vào ngày tận thế ...chính linh hồn là cái sẽ quyết định cá nhân ấy hoặc bị trừng phạt ở hỏa ngục hoặc được ban thưởng một cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Đàng ...còn Đạo Phật dạy rằng không có gì được xem là linh hồn hay cái ngã thực và thường hằng như vậy. Đạo Phật là tôn giáo chính duy nhất phủ nhận sự hiện hữu của một thực thể siêu hình được gọi là bản ngã hay linh hồn.
Giáo lý Vô Ngã luôn là trung tâm của tranh luận Phật Giáo, có thể xác quyết chính Đức Phật Thích Ca đã lấy nó làm một trong những điểm chính yếu của Giáo Pháp. Phần lớn các nhà Phật giáo Bắc tông sau này đều công nhận giáo lý Vô Ngã nhưng về sau các trường phái Phật giáo Bắc tông do các chư Tổ xiển dương đã trôi dạt vào một học thuyết giống như bản ngã vậy (Phật tánh, chân tâm), điều này không còn đúng với tinh thần nguyên thủy theo lời dạy của Đức Phật là Vô Ngã. Những tranh luận về giáo lý Vô Ngã dường như dựa trên một sự sợ hãi sâu xa về việc phủ nhận sự hiện hữu của một linh hồn. Người ta thường bám chấp rất mãnh liệt vào thân tâm, rất quý sự sống của họ vì thế họ thích tin rằng phải có một cái gì đó như linh hồn trường cữu bất diệt và thường hằng bên trong họ. Khi Đức Phật nói không có cái gì thường hằng trong họ, không có cái gì như một linh hồn nhờ đó họ sẽ tiếp tục sống đời đời, điều này làm họ trở nên khiếp sợ. Họ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với họ trong tương lai, họ mang nỗi sợ hãi về sự diệt vong. Đức Phật rất hiểu điều này, chúng ta có thể thấy qua câu chuyện sau đây:
Vacchagotta là một du sĩ ngoại đạo, một lần nọ đi đến gặp Đức Phật để đàm luận về một số vấn đề quan trọng. Ông Vacchagotta hỏi Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, có Tự Ngã không? “. Đức Phật giữ im lặng. Sau khi Vacchagotta bỏ đi, Đức Phật giải thích cho thị giả A Nan lý do tại sao Phật đã giữ im lặng.
Đức Phật giải thích: Ngài biết rằng Vacchagotta rất lầm lẫn trong ý tưởng của ông về Tự Ngã (Linh hồn). Nếu Ta trả lời là có Tự Ngã, thời Ta sẽ cho là đang trình bày quan điểm của những người thường kiến, chủ trương có cái Ngã thường hằng, điều mà Ta không đồng ý. Nhưng nếu Ta nói rằng không có Tự Ngã thời Vacchagotta nghĩ rằng Ta trình bày quan điểm của những người đoạn kiến, cho rằng con người không là gì cả sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn vào lúc chết. Bởi lẽ quan điểm sau phủ nhận Nghiệp, tái sanh và Duyên khởi nên Đức Phật cũng không đồng ý với quan kiến này.
Thật sự Đức Phật dạy rằng con người tái sanh với “Thức hay Tâm tục sinh “. Một cái Thức tái sinh vốn không chuyển đi từ kiếp sống trước nhưng đi vào hiện hữu nhờ những điều kiện trong những kiếp sống trước như là Nghiệp chẳng hạn. Như vậy người tái sinh không phải là một với người đã chết và người tái sinh cũng không hoàn toàn khác với người đã chết. Điều quan trọng hơn cả là không có thực thể siêu hình, không có linh hồn, không có loại bản ngã tinh thần nào tiếp tục từ một hiện hữu này đến một hiện hữu khác. Nhưng lời dạy này lại quá khó đối với Vacchagotta nên Ngài đợi đến một thời điểm thích hợp, Ngài dẫn Đạo tùy theo căn cơ, hoàn cảnh của con người, vì lợi ích của họ. Sau này Vacchagotta nhận ra tính chất Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của các Pháp và đắc Đạo thành một bậc A La Hán.
Trước khi Đức Phật xuất hiện ở thế gian này thì Bà La Môn giáo hay Ấn Độ giáo đã thịnh hành ở đất nước Ấn Độ. Bà La Môn giáo dạy giáo lý về sự hiện hữu của Linh hồn hay Tự ngã. Khi Đức Phật xuất hiện Ngài tuyên bố không có Linh hồn. Giáo lý Vô Ngã này quan trọng đến mức chỉ 5 ngày sau khi thuyết bài Pháp đầu tiên Tứ Thánh Đế thì Đức Phật đã công bố giáo lý Vô Ngã này. Khi 5 anh em Thánh Tăng Kiều Trần Như nghe bài Pháp Vô Ngã này đến cuối bài Pháp đều đắc quả vị A La Hán.
Linh hồn là cái gì mà Đức Phật phủ nhận? Theo Ấn Giáo thì Linh hồn là cái lõi bên trong của bất kỳ vật gì hàm ý là sự tồn tại lâu dài. Cái lõi cũng hàm ý là cái tốt nhất của một vật gì được xem là tinh chất, trong sạch, chân thật, bền lâu. Một ý nghĩa khác của Linh hồn là quyền lực làm cho những người khác phải tuân theo mệnh lệnh. Linh hồn là người có quyền lực cao nhất và được xem là ông chủ của chính nó. Linh hồn còn là tác nhân của hành động làm mọi sự tốt hay xấu. Trong một nghĩa khác của Linh hồn theo kinh điển Ấn Giáo là cái Ngã cá nhân đồng nhất với cái Ngã vũ trụ, Đấng tối cao hay còn gọi là Phạm Thiên cư trú trong mọi người và trong mọi hữu tình chúng sinh. Theo lý luận này thì giải thoát là Tự Ngã đồng nhất với bản thể vũ trụ hay Phạm Thiên.
Đức Phật đã phủ nhận thuyết Linh hồn của Ấn Giáo. Theo Đức Phật không có gì chúng ta có thể gọi là một cái lõi bên trong vĩnh hằng và hạnh phúc như vậy và cũng không có gì chúng ta có thể kêu cầu để vận dụng quyền lực của họ đối với bản chất của các Pháp. Trong Đạo Phật không có người làm hay người tác nghiệp ngoài nghiệp và cũng không có người cảm thọ ngoài cảm thọ. Không có cái gì hoặc không có người nào có quyền lực tuyệt đối vì vạn hữu, vạn vật đều phó mặc cho sự sáng tạo và hoại diệt không ngừng của các Pháp hữu vi. Đức Phật dạy rằng chỉ có 5 Uẩn kết hợp (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), nếu nói chuyên biệt hơn chỉ có Tâm và Thân hay Danh và Sắc. Ngoài Thân và Tâm không có bất cứ cái gì khác hiện hữu để chúng ta có thể gọi là Linh hồn. Pháp duy nhất tồn tại ngoài lĩnh vực Danh và Sắc là Niết Bàn giới Vô Vi, là chân lý tuyệt đối nhưng ngay cả Niết Bàn cũng là Vô Ngã.
Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) chúng ta thấy có câu chuyện kể về một Du sĩ ngoại đạo rất nổi tiếng tên là Saccaka. Một hôm ông ta nghe Đức Phật dạy về giáo lý Vô Ngã, vì lẽ ông ta là một nhà biện tài rất sắc bén, ông quyết định sẽ đi gặp Đức Phật để thuyết phục Ngài rằng giáo lý Vô Ngã là sai lầm. Ông Saccaka cảm thấy rất tự tin và ông tuyên bố rằng nếu ông có tranh luận với một cột trụ đá thì trụ đá ấy sẽ toát mồ hôi vì sợ. Ông còn nói ví như một lực sĩ nắm lấy một con dê và quay nó quanh vai mình như thế nào, ông cũng sẽ nắm lấy sa môn Thích Ca mà xoay như vậy trong cuộc tranh luận.
Saccaka và những đệ tử của ông đến gặp Đức Phật và chào hỏi Ngài. Sau đó ông mời Đức Phật giải thích về giáo lý mà Ngài đã dạy. Đức Phật trả lời rằng Ngài dạy Vô Ngã. Ông Saccka nói ngược lại là: “có Ngã , 5 Uẩn là Tự Ngã. "
Đức Phật nói: “Ông có thật sự cho rằng sắc uẩn là Tự Ngã không?
Saccaka vốn xấu trai nên nếu ông nói rằng sắc (thân) là Tự Ngã thì Đức Phật sẽ hỏi ngược lại: “Vậy thì tại sao ông không làm cho diện mạo mình đẹp trai lên đi?”
Thế là Saccaka buộc phải nói Sắc thân không phải là Tự Ngã.
Ở đây chúng ta thấy Đức Phật đánh đổ một số đặc điểm được người ta cho là Tự Ngã. Nếu Saccaka có một Tự Ngã, thì ông có thể kêu gọi nó vận dụng quyền lực, sức mạnh để thay đổi diện mạo của ông. Vì suy cho cùng Tự Ngã đồng nhất với Đại Ngã tức cái Ngã vũ trụ, Đấng sáng tạo quyền năng vô tận, nguồn cội của vạn vật thế gian. Tuy nhiên Đức Phật cho biết chỉ có 5 Uẩn hiện hữu và 5 Uẩn này không phải là Linh hồn hay Tự Ngã bởi vì chúng phải tuân theo những quy luật của vô thường, khổ, vô ngã. Sắc không phải là linh hồn, nó không phải là ông chủ và người cai trị của chính nó, nó còn phải chịu sự đau khổ. Các Uẩn khác như Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng phải theo những quy luật như vậy. Do đó Saccaka đã bị đánh bại.
Trong bài kinh Vô Ngã Tướng (Anatta Lakkana Sutta), Đức Phật có nói:
"Ví như một con rối làm bằng gỗ, mặc dù không thực chất, không có sự sống và không hoạt động, song bằng cách kéo những sợi dây người ta có thể làm cho nó cử động, đứng lên, ngồi xuống và có vẻ như đầy sức sống và hoạt động. Tâm và Thân này cũng vậy là một cái gì đó rỗng không, không có sự sống và không hoạt động nhưng nhờ sự vận hành hỗ tương của chúng với nhau do nghiệp, sự kết hợp tâm vật lý này có thể chuyển động, và có vẻ như đầy sự sống hoạt động.“
Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật mô tả sự tin tưởng nơi Tự Ngã (Linh hồn) như một ý tưởng dẫn đến sự vị kỷ và ngã mạn:
“Như Lai thoát khỏi mọi tà kiến vì Như Lai đã thấy Sắc là gì, và Sắc sanh và diệt như thế nào. Như Lai đã thấy Thọ ...Tưởng ...Hành ...Thức là gì và chúng sanh và diệt như thế nào. Do đó Như Lai nói rằng với sự đoạn trừ, đoạn diệt, biến mất, xả bỏ tất cả mọi ảo tưởng, mọi phỏng đoán, mọi khuynh hướng đối với tính tự đắc về "Ta" và sở hữu "của Ta" mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn. "
Nam Mô A Di Đà Phật
Chúng ta có thể đi đến kết luận bằng việc giải thích một lời tuyên bố rất quan trọng Vô Ngãi Giải Đạo và trong Nikaya. Câu đầu tiên có nghĩa: “Các Pháp hữu vi là vô thường “. Câu thứ hai có nghĩa: “Các Pháp hữu vi là khổ “. Tuy nhiên câu thứ ba lại khác là: “Tất cả các Pháp hữu vi cũng như vô vi đều Vô Ngã “. Do đó ngay cả Niết Bàn vốn là vô vi cũng không phải là Tiểu Ngã hay Đại Ngã. Lời tuyên bố của Đức Phật rõ ràng xác quyết, phủ nhận bất kỳ linh hồn nào, ngay cả trong chân lý cùng tột tuyệt đối của sự giác ngộ, ngay cả trong Niết Bàn vĩnh hằng cũng vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nguyễn
Thế Hiệp
2.Tư thế Kết già:
Kiết
già thực chất là tư thế ngồi thiền hoặc có thể gọi là thiền tư thế hoa sen.
Kiết già là bước khởi đầu cho sự tĩnh tâm để đi vào tập luyện. Kiết già được
phân chia thành nhiều mức, cấp thấp nhất là bán già (chỉ vắt được 1 chân lên);
cấp độ 2 là kiết già (vắt được cả hai bàn chân lên như tư thế Phật ngồi).
Cơ chế chung của kiết già đẩy bệnh
chính là ngồi thiền, tập trung tư tưởng cao độ để dẫn khí (qua hít thở), rồi
tập ám thị (gây ra cảm giác nóng, lạnh, nặng nhẹ tùy ý), điều khiển kinh mạch
cơ thể. Chỉ việc ngồi kiết già thôi cũng đã là có tác dụng rồi nhưng kiết già
sẽ phát huy tác dụng nhiều hơn nữa nếu tập trung được tư tưởng, tập vận khí,
dẫn khí và cao hơn nữa là tập điều chỉnh cơ thể thì sẽ đạt được hiệu quả vô cùng
lớn nhờ tập kiết già, điều chỉnh cơ thể.
Một trong những điều kỳ diệu của thiền kiết già trong yoga chính là tiến tới làm chủ bản thân cả về thể xác và tâm hồn. Đạt đến được cấp độ đó thì việc đẩy lùi bệnh tật không còn là điều khó khăn. Bí ẩn của kiết già trị bệnh đầu tiên là phải tập thở bằng cơ hoành hay còn gọi là thở bụng: Hít vào - bụng phình, thở ra - bụng thót. Nhịp thở lâu hay mau không quan trọng mà quan trọng là phải buộc bản thân tuân thủ kỷ luật thở có chủ định.
Một trong những điều kỳ diệu của thiền kiết già trong yoga chính là tiến tới làm chủ bản thân cả về thể xác và tâm hồn. Đạt đến được cấp độ đó thì việc đẩy lùi bệnh tật không còn là điều khó khăn. Bí ẩn của kiết già trị bệnh đầu tiên là phải tập thở bằng cơ hoành hay còn gọi là thở bụng: Hít vào - bụng phình, thở ra - bụng thót. Nhịp thở lâu hay mau không quan trọng mà quan trọng là phải buộc bản thân tuân thủ kỷ luật thở có chủ định.
Có
thể tập ở mọi nơi như khi đạp xe, đi chợ, nấu cơm, đi làm... Tiếp đó, tập tự
kiểm soát tâm trí bằng nhãn quan nội soi, soi trở vào trong. Ngồi kiết già,
từng bước cắt hết mọi cảm giác, toàn bộ tâm trí tập trung đi theo hơi thở vào
ra, còn thân mình thì thả lỏng tối đa. Mỗi ngày thở đều đặn như vậy khoảng 15-
20 phút. Cứ như vậy, sau một thời gian có thể đạt đến độ dẫn luồng hơi theo các
kinh mạch tác động vào các huyệt đạo, gọi là các luân xa".
Để
tập luyện được kỹ năng này, đầu tiên phải ngồi kiết già thoải mái, thả lỏng
toàn thân, tưởng tượng hai tay nóng lên. Sau khi gây được cảm giác nóng hơi
tay, thì chuyển sang tưởng tượng bản thân là một ngọn lửa, toàn thân tỏa nhiệt.
Điều kỳ diệu sau mỗi cấp thiền kiết già chính là việc làm chủ được thân xác và
nội quan, tạo được cân bằng cơ thể, tùy ý điều khiển được phế nang, động mạch,
tĩnh mạch... đẩy lùi bệnh tật.
Tuy nhiên, nếu chỉ ngồi thiền kiết
già mà trị được bách bệnh thì là điều không tưởng. Nó phải được kết hợp với một
loạt các tập luyện khác một cách đều đặn thì con người mới có sức khỏe dẻo dai,
trị bệnh được.
Chỉ cần ngồi vào tư thế kiết già, dù ta không cố gắng tập trung
tư tưởng vẫn có một sự thay đổi sóng não từ nhịp Beta khoảng 20c/s xuống nhịp
Alpha khoảng 8 c/s. Nhịp Alpha là sóng não của một người trầm tĩnh, minh mẫn có
tâm lý ổn định. Điều này có nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng để
dẫn dắt người thực tập dễ đi đến trạng thái thư giãn, nhập tĩnh.
Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận và thực tế lâm sàng
của y học châm cứu cổ truyền về huyệt “Tam âm giao”. Được biết, khi ở tư thế
kiết già xương mắt cá chân sẽ tạo sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt “Tam âm
giao” của chân còn lại. Điều này có nghĩa là trong suốt thời gian ngồi kiết
già, huyệt ”Tam âm giao” liên tục được kích hoạt. Ở những người thường ngồi tư
thế này, sức ép tạo ra một dấu ấn trên mặt da tại vùng huyệt trong giống như
một vết thương cũ đã lành. Huyệt “Tam âm giao” ở chỗ lõm bờ sau xương chày. Đối
với người có tầm vóc trung bình, huyệt là điểm giao hội của ba đường kinh âm:
Túc thái âm Tỳ, Túc thiếu âm Thận, và Túc quyết âm Can, Theo quan niệm chỉnh
thể của y học Phương Đông, một tạng hoặc một phủ nào đó khi phát sinh bệnh biến
sẽ có biểu hiện trên đương tuần hoàn của đường kinh đi qua nó. Ngược lại, ta
cũng có thể thông qua những huyệt vị trên đường kinh để điều chỉnh những rối
loạn bệnh lý của các tạng phủ bên trong. Ở đây, Can Thận chủ hạ tiêu, Tỳ chủ
trung tiêu. Do đó, khi tác động vào huyệt “Tam âm giao”, ta có thể điều chỉnh
toàn bộ quá trình chuyển hóa, hấp thu và bài tiết ở khu vực này. Đặc biệt là
tác dụng “dưỡng Âm kiện Tỳ” và “sơ tiết Can khí” của huyệt. Tác dụng này giúp
tái lập cân bằng nội tiết, nội tạng và điều hòa thần kinh giao cảm. Chính điều
này giúp an định cả thân và tâm trong quá trình hành Thiền.
Việc kích họat vào huyệt “Tam âm giao” của tư thế ngồi kiết già còn làm sáng tỏ thêm một nghi vấn khác. Đó là ở tư thế này, chân hữu chồng lên chân tả hay ngược lại chân tả phải chồng lên chân hữu? Trong Tu thiền yếu quyết, ngài Phật Đà Ba Lợi (Buddha Pali) giải thích về kiết già. ”Ở Bắc Ấn Độ, kiết già phu tọa là cách ngồi chân tả chồng lên chân hữu và chân hữu chéo lên chân tả”. Tuy nhiên ở một số kinh tạng khác, chẳng hạn trong Thiên Thai chỉ quán của ngài Trí Khải Đại Sư thì “Kiết già phu tọa là cách ngồi chồng chân hữu lên chân tả và chéo chân tả lên chân hữu”.
Trên thực tế, hệ thống kinh lạc ở hai bên thân thể, bên phải và bên trái có tính tương đồng và đối xứng với nhau. Do đó dù ngồi cách nào thì một trong hai huyệt, hoặc “Tam âm giao” phải hoặc “Tam âm giao” trái sẽ được tác động. Hơn nữa. “Tam âm giao” là một trong số rất ít các huyệt vị có tính tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích vào huyệt theo cách nào, lâu hay mau, bên phải hay bên trái thì hiệu ứng mang lại vẫn là cải thiện, là điều chỉnh để tiến đến hòa hợp và cân bằng. Do đó tùy theo sở thích hoặc thói quen của mỗi người, cả hai cách ngồi trên đều mang lại kết quả tốt đẹp cho việc hành thiền.
Việc kích họat vào huyệt “Tam âm giao” của tư thế ngồi kiết già còn làm sáng tỏ thêm một nghi vấn khác. Đó là ở tư thế này, chân hữu chồng lên chân tả hay ngược lại chân tả phải chồng lên chân hữu? Trong Tu thiền yếu quyết, ngài Phật Đà Ba Lợi (Buddha Pali) giải thích về kiết già. ”Ở Bắc Ấn Độ, kiết già phu tọa là cách ngồi chân tả chồng lên chân hữu và chân hữu chéo lên chân tả”. Tuy nhiên ở một số kinh tạng khác, chẳng hạn trong Thiên Thai chỉ quán của ngài Trí Khải Đại Sư thì “Kiết già phu tọa là cách ngồi chồng chân hữu lên chân tả và chéo chân tả lên chân hữu”.
Trên thực tế, hệ thống kinh lạc ở hai bên thân thể, bên phải và bên trái có tính tương đồng và đối xứng với nhau. Do đó dù ngồi cách nào thì một trong hai huyệt, hoặc “Tam âm giao” phải hoặc “Tam âm giao” trái sẽ được tác động. Hơn nữa. “Tam âm giao” là một trong số rất ít các huyệt vị có tính tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích vào huyệt theo cách nào, lâu hay mau, bên phải hay bên trái thì hiệu ứng mang lại vẫn là cải thiện, là điều chỉnh để tiến đến hòa hợp và cân bằng. Do đó tùy theo sở thích hoặc thói quen của mỗi người, cả hai cách ngồi trên đều mang lại kết quả tốt đẹp cho việc hành thiền.
Phần
3 - Sáu (6) Ba la mật để đạt tới Đại Giác ngộ và những vấn đề cần phải có trước
trong đó có Nhất Nam (sinh tồn và tồn vong)
3.
Các
biểu hiện và lượng hóa sự Giác ngộ của Thiền qua hình ảnh 32 tướng tốt và 80 vẻ
đẹp của Đức Phật khi Ngài tu luyện đạt Đạo:
3.1.
Quan niệm về tướng tốt:
(1) Tướng tốt theo quan điểm tướng pháp Á Đông không phải là quan niệm về cái đẹp thẩm mỹ, mà chính là cái đẹp của đức hạnh biểu hiện qua hình thể. Đời sống sung túc, tốt đẹp của một người được biểu hiện qua hình tướng đắc cách hay không, những tướng tốt này lại có nguồn gốc sâu xa liên quan đến phúc đức của ông bà cha mẹ hay của chính mình trong quá khứ. Điều này được đúc kết dựa theo kinh nghiệm và quan sát thực tế mà rút ra được những quy luật về phương pháp.
(2) Đối với Phật giáo, thân tướng đắc cách tốt đẹp, biểu hiện đời sống tốt đẹp, qua lý thuyết chánh báo đi đôi với y báo. Tất cả những điều kiện tốt đẹp đó đều do công đức tích lũy trong quá khứ, theo quy luật nhân quả: gieo nhân nào gặt quả nấy. Đức Phật có đủ 32 tướng tốt có nghĩa là Ngài đã tích lũy vô lượng công đức trong nhiều kiếp, này thừa hướng kết quả của những công đức đó mà thôi.
(3) Quan niệm về tướng tốt và xấu như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, thì thuộc vào kinh nghiệm thực tế và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, của mỗi đất nước. Có những tướng theo quan điểm Ấn Độ là tốt nhưng đối với chúng ta thì xấu hoặc kì dị. Do đó cần phải rộng lượng khi nhận định về tướng pháp.
3.2. Những tướng tốt của đức Phật:
(1) Ba mươi hai tướng tốt của đức Phật được đề cập, khá nhiều trong kinh, trong Nam tạng cũng như Bắc tạng như: kinh Sơ Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm), kinh Tâm Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm), kinh Đại Bổn (Trường Bộ), kinh Tướng (Trường Bộ), kinh Tập, kinh Tiểu Bộ... và một số rải rác trong kinh tạng Đại Thừa...
(2) Tham khảo 32 tướng tốt của đức Phật qua các kinh trên, có khá nhiều sự sai khác, có những tướng kinh này có, kinh kia không và ngược lại. Có một số tướng quan điểm khác nhau. Như kinh Sơ Đại Bổn Duyên có tướng chữ "vạn" ở ngực nhưng các kinh khác không có. Kinh Tướng (Trường Bộ) không có tướng nhục kế như hầu hết các kinh khác. Mặt khác, cùng là kinh Nam truyền vẫn có những quan điểm khác nhau, Bắc truyền cũng vậy. Có những tướng sai biệt lệch lạc khá xa như tướng 18 trong Sơ Đại Bổn Duyên là tướng 7 lỗ trong người đều đầy đặn bằng phẳng. Trong kinh Tướng thì nói 7 chỗ trong người, tướng thứ 3 trong Sơ Đại Bổn Duyên nói có màng lưới mỏng giữa kẻ chân tay như chân ngỗng chúa. Nhưng kinh Tam Thập Nhị Tướng thì cho là như chim nhạn. Tạng Pàli kinh Lakkhana thì nói lòng bàn tay bàn chân có chỉ giăng như lưới...
Từ những sai biệt đó chúng ta khó mà xác định kinh nào là nói đúng và đủ 32 tướng, nếu ngây thơ tin vào 32 tướng của riêng một kinh nào thì ta khó mà hình dung nổi hình dáng của đức Phật như thế nào.
(3) Mặc dù gặp những khó khăn như trên, nhưng qua những tướng mà nhiều kinh đều nói giống nhau, qua thực tế hình tướng đức Phật đang lưu truyền, chúng ta có thể rút ra được những tướng tốt của đức Phật như sau:
1/ Lòng bàn chân bằng phẳng.
2/ Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm.
3/ Gót chân đầy đặn.
4/ Ngón tay, ngón chân thon dài.
5/Tay chân mềm mại.
6/ Đứng thẳng tay dài đến gối.
7/ Lông màu xanh biếc và xoáy tròn về bên phải.
8/ Da mịn màng trơn láng bụi không bám.
9/ Da màu vàng như màu vàng y.
10/ Tướng mã âm tàng.
11/ Bụng thon.
12/ Ngực nở nang.
13/ Thân hình cao lớn.
14/ Có đủ 40 cái răng.
15/ Răng bằng và đều khít.
16/ Răng trắng và bóng.
17/ Tiếng nói trong trẻo vang xa.
18/ Ngực có chữ "vạn".
(1) Tướng tốt theo quan điểm tướng pháp Á Đông không phải là quan niệm về cái đẹp thẩm mỹ, mà chính là cái đẹp của đức hạnh biểu hiện qua hình thể. Đời sống sung túc, tốt đẹp của một người được biểu hiện qua hình tướng đắc cách hay không, những tướng tốt này lại có nguồn gốc sâu xa liên quan đến phúc đức của ông bà cha mẹ hay của chính mình trong quá khứ. Điều này được đúc kết dựa theo kinh nghiệm và quan sát thực tế mà rút ra được những quy luật về phương pháp.
(2) Đối với Phật giáo, thân tướng đắc cách tốt đẹp, biểu hiện đời sống tốt đẹp, qua lý thuyết chánh báo đi đôi với y báo. Tất cả những điều kiện tốt đẹp đó đều do công đức tích lũy trong quá khứ, theo quy luật nhân quả: gieo nhân nào gặt quả nấy. Đức Phật có đủ 32 tướng tốt có nghĩa là Ngài đã tích lũy vô lượng công đức trong nhiều kiếp, này thừa hướng kết quả của những công đức đó mà thôi.
(3) Quan niệm về tướng tốt và xấu như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, thì thuộc vào kinh nghiệm thực tế và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, của mỗi đất nước. Có những tướng theo quan điểm Ấn Độ là tốt nhưng đối với chúng ta thì xấu hoặc kì dị. Do đó cần phải rộng lượng khi nhận định về tướng pháp.
3.2. Những tướng tốt của đức Phật:
(1) Ba mươi hai tướng tốt của đức Phật được đề cập, khá nhiều trong kinh, trong Nam tạng cũng như Bắc tạng như: kinh Sơ Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm), kinh Tâm Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm), kinh Đại Bổn (Trường Bộ), kinh Tướng (Trường Bộ), kinh Tập, kinh Tiểu Bộ... và một số rải rác trong kinh tạng Đại Thừa...
(2) Tham khảo 32 tướng tốt của đức Phật qua các kinh trên, có khá nhiều sự sai khác, có những tướng kinh này có, kinh kia không và ngược lại. Có một số tướng quan điểm khác nhau. Như kinh Sơ Đại Bổn Duyên có tướng chữ "vạn" ở ngực nhưng các kinh khác không có. Kinh Tướng (Trường Bộ) không có tướng nhục kế như hầu hết các kinh khác. Mặt khác, cùng là kinh Nam truyền vẫn có những quan điểm khác nhau, Bắc truyền cũng vậy. Có những tướng sai biệt lệch lạc khá xa như tướng 18 trong Sơ Đại Bổn Duyên là tướng 7 lỗ trong người đều đầy đặn bằng phẳng. Trong kinh Tướng thì nói 7 chỗ trong người, tướng thứ 3 trong Sơ Đại Bổn Duyên nói có màng lưới mỏng giữa kẻ chân tay như chân ngỗng chúa. Nhưng kinh Tam Thập Nhị Tướng thì cho là như chim nhạn. Tạng Pàli kinh Lakkhana thì nói lòng bàn tay bàn chân có chỉ giăng như lưới...
Từ những sai biệt đó chúng ta khó mà xác định kinh nào là nói đúng và đủ 32 tướng, nếu ngây thơ tin vào 32 tướng của riêng một kinh nào thì ta khó mà hình dung nổi hình dáng của đức Phật như thế nào.
(3) Mặc dù gặp những khó khăn như trên, nhưng qua những tướng mà nhiều kinh đều nói giống nhau, qua thực tế hình tướng đức Phật đang lưu truyền, chúng ta có thể rút ra được những tướng tốt của đức Phật như sau:
1/ Lòng bàn chân bằng phẳng.
2/ Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm.
3/ Gót chân đầy đặn.
4/ Ngón tay, ngón chân thon dài.
5/Tay chân mềm mại.
6/ Đứng thẳng tay dài đến gối.
7/ Lông màu xanh biếc và xoáy tròn về bên phải.
8/ Da mịn màng trơn láng bụi không bám.
9/ Da màu vàng như màu vàng y.
10/ Tướng mã âm tàng.
11/ Bụng thon.
12/ Ngực nở nang.
13/ Thân hình cao lớn.
14/ Có đủ 40 cái răng.
15/ Răng bằng và đều khít.
16/ Răng trắng và bóng.
17/ Tiếng nói trong trẻo vang xa.
18/ Ngực có chữ "vạn".
Chữ vạn là một
trong 32 tướng tốt của Đức Phật. Đây là biểu thị cái công đức của Phật. Sở dĩ
nó ứng hiện ở nơi ngực của Phật là để nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn của
Phật. Ở chính giữa ngực là tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên,
vượt ngoài đối đãi.
Về ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích, thì nó có nghĩa là cát tường hải vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về chiều xoay bên phải, bên trái không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích như sau:
“Hình chữ Vạn, (xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay về bên trái vào đây) vốn là dấu hiệu biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều có phù hiệu nầy, thông thường được xem là tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp, lửa, nước chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở trước ngực của Phật và hàng Bồ tát Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa nay có nhiều thuyết nói về chữ vạn. Về Hán dịch chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền Trang dịch là chữ « Đức », Ngài Bồ đề lưu chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao Tăng Truyện 3 thì cho rằng nếu chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch là vạn thì chẳng phải dịch ý mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào Kinh truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ nầy, đọc là vạn và cho rằng chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành. Nhưng chữ Vạn (chiều trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng phải là một chữ. Sở dĩ xưa nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu nhất là do lầm lẫn khi dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch âm là Lạc sát nẳng, nghĩa là tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la, nghĩa là Tự. Có lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý nghĩa của chúng bị lẫn lộn. Nói theo đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là tướng, (vạn tướng) mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn.
Từ xưa, chữ Vạn đã có 2 trường hợp xoay về bên tả và xoay về bên hữu khác nhau. Đối với Ấn Độ giáo, phần nhiều dùng chữ vạn (chiều xoay về bên trái) để biểu thị cho nam tánh thần và chữ vạn (có chiều xoay về bên phải) để biểu thị cho nữ tánh thần. Đối với Phật giáo, có ngôi tháp cổ hiện còn ở vườn Lộc dã, chữ trên tháp toàn là chữ Vạn, (có chiều xoay về phía phải) ngôi tháp nầy là vật kiến trúc thời vua A Dục, được xây dựng để kỷ niệm nơi ngày xưa Đức Phật đã nhập định.
Tại Tây Tạng, tín đồ Lạt Ma Giáo thường dùng chữ Vạn (có chiều xoay về phía bên trái) tín đồ Bổng giáo thì dùng chữ Vạn (cũng xoay về phía trái). Tại Trung Quốc, qua nhiều đời đều dùng cả 2 cách. Huệ Lâm Âm Nghĩa và Cao Ly Đại Tạng Kinh đều chủ trương chữ Vạn (chiều xoay về phía trái) , Nhật Bản Đại Tạng Kinh cũng mô phỏng theo và sử dụng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải) , nhưng 3 bản Tạng Kinh đời Tống, Nguyên, Minh, đều dùng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải), sự phân chia chữ xoay về bên tả và bên hữu chủ yếu là do nơi lập trường khác nhau.
Trong Kinh có nhiều chỗ nói “xoay về bên hữu”, sợi lông trắng giữa 2 đầu chân mày cũng uyển chuyển xoay về bên hữu, lại như khi lễ kính Phật, Bồ tát cũng phải đi nhiểu về bên hữu, cho nên từ ngữ “xoay về bên hữu” đã thành luận thuyết nhất định, nhưng rốt cuộc thì chữ Vạn là xoay về bên phải hay là xoay về bên trái vẫn còn là đầu mối gây ra sự tranh luận. Nếu đặt chữ Vạn ở phía trước chúng ta, nhìn chữ Vạn từ chỗ đứng của chúng ta thì xoay về bên hữu sẽ thành chữ Vạn (chiều xoay về bên hữu) ; nhưng nếu nói theo bản thân của chữ thì chữ Vạn (chiều xoay về bên phải) là phù hợp với phương hướng xoay về bên hữu.
Về ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích, thì nó có nghĩa là cát tường hải vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về chiều xoay bên phải, bên trái không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích như sau:
“Hình chữ Vạn, (xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay về bên trái vào đây) vốn là dấu hiệu biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều có phù hiệu nầy, thông thường được xem là tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp, lửa, nước chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở trước ngực của Phật và hàng Bồ tát Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa nay có nhiều thuyết nói về chữ vạn. Về Hán dịch chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền Trang dịch là chữ « Đức », Ngài Bồ đề lưu chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao Tăng Truyện 3 thì cho rằng nếu chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch là vạn thì chẳng phải dịch ý mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào Kinh truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ nầy, đọc là vạn và cho rằng chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành. Nhưng chữ Vạn (chiều trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng phải là một chữ. Sở dĩ xưa nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu nhất là do lầm lẫn khi dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch âm là Lạc sát nẳng, nghĩa là tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la, nghĩa là Tự. Có lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý nghĩa của chúng bị lẫn lộn. Nói theo đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là tướng, (vạn tướng) mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn.
Từ xưa, chữ Vạn đã có 2 trường hợp xoay về bên tả và xoay về bên hữu khác nhau. Đối với Ấn Độ giáo, phần nhiều dùng chữ vạn (chiều xoay về bên trái) để biểu thị cho nam tánh thần và chữ vạn (có chiều xoay về bên phải) để biểu thị cho nữ tánh thần. Đối với Phật giáo, có ngôi tháp cổ hiện còn ở vườn Lộc dã, chữ trên tháp toàn là chữ Vạn, (có chiều xoay về phía phải) ngôi tháp nầy là vật kiến trúc thời vua A Dục, được xây dựng để kỷ niệm nơi ngày xưa Đức Phật đã nhập định.
Tại Tây Tạng, tín đồ Lạt Ma Giáo thường dùng chữ Vạn (có chiều xoay về phía bên trái) tín đồ Bổng giáo thì dùng chữ Vạn (cũng xoay về phía trái). Tại Trung Quốc, qua nhiều đời đều dùng cả 2 cách. Huệ Lâm Âm Nghĩa và Cao Ly Đại Tạng Kinh đều chủ trương chữ Vạn (chiều xoay về phía trái) , Nhật Bản Đại Tạng Kinh cũng mô phỏng theo và sử dụng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải) , nhưng 3 bản Tạng Kinh đời Tống, Nguyên, Minh, đều dùng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải), sự phân chia chữ xoay về bên tả và bên hữu chủ yếu là do nơi lập trường khác nhau.
Trong Kinh có nhiều chỗ nói “xoay về bên hữu”, sợi lông trắng giữa 2 đầu chân mày cũng uyển chuyển xoay về bên hữu, lại như khi lễ kính Phật, Bồ tát cũng phải đi nhiểu về bên hữu, cho nên từ ngữ “xoay về bên hữu” đã thành luận thuyết nhất định, nhưng rốt cuộc thì chữ Vạn là xoay về bên phải hay là xoay về bên trái vẫn còn là đầu mối gây ra sự tranh luận. Nếu đặt chữ Vạn ở phía trước chúng ta, nhìn chữ Vạn từ chỗ đứng của chúng ta thì xoay về bên hữu sẽ thành chữ Vạn (chiều xoay về bên hữu) ; nhưng nếu nói theo bản thân của chữ thì chữ Vạn (chiều xoay về bên phải) là phù hợp với phương hướng xoay về bên hữu.
19/ Vai ngang và đều đặn.
20/ Lưỡi dài và rộng.
21/ Mắt xanh và đẹp.
22/ Có một sợi lông trắng giữa 2 mày xoáy tròn xoay về bên phải.
23/ Đỉnh đầu có nhục kế.
Một số tướng tốt ở trên phù hợp với quan điểm tướng tốt của Trung Hoa và Việt Nam. (Một số tướng tốt còn lại có phần sai biệt giữa các kinh, chúng tôi không dẫn ra đây).
20/ Lưỡi dài và rộng.
21/ Mắt xanh và đẹp.
22/ Có một sợi lông trắng giữa 2 mày xoáy tròn xoay về bên phải.
23/ Đỉnh đầu có nhục kế.
Một số tướng tốt ở trên phù hợp với quan điểm tướng tốt của Trung Hoa và Việt Nam. (Một số tướng tốt còn lại có phần sai biệt giữa các kinh, chúng tôi không dẫn ra đây).
3.3.Ý nghĩa biểu tượng
của một số tướng tốt:
Khảo sát về 32 tướng tốt của một bậc đại nhân theo quan điểm Ấn Độ, có khá nhiều loại tướng pháp mang ý nghĩa biểu tượng, có ý nghĩa tướng pháp đích thực. Chính đức Phật cũng sử dụng ý niệm và niềm tin vào tướng tốt của mọi người để truyền đạt lý tưởng "Diệt trừ điều ác, tăng trưởng điều thiện". Các kinh Lakkhana Sutra, kinh Tam Thập Nhị Tướng, đều có lý giải nguyên nhân, do có công đức gì mà được tướng tốt đó, giảng giải khá chi tiết, ví dụ:
Khảo sát về 32 tướng tốt của một bậc đại nhân theo quan điểm Ấn Độ, có khá nhiều loại tướng pháp mang ý nghĩa biểu tượng, có ý nghĩa tướng pháp đích thực. Chính đức Phật cũng sử dụng ý niệm và niềm tin vào tướng tốt của mọi người để truyền đạt lý tưởng "Diệt trừ điều ác, tăng trưởng điều thiện". Các kinh Lakkhana Sutra, kinh Tam Thập Nhị Tướng, đều có lý giải nguyên nhân, do có công đức gì mà được tướng tốt đó, giảng giải khá chi tiết, ví dụ:
(1)
Tướng nhục kế (Usnissa): Tướng này là một cục
thịt nổi trên đỉnh đầu, do công đức hiếu kính cha mẹ, kính thuận sư trưởng và
các bậc trưởng thượng mà được thành tựu. Quan điểm của Đại thừa thì cho rằng tướng
này biểu thị cho trí tuệ của Phật, từ tướng nhục kế này còn triển khai thêm tướng
phụ là Vô kiến đảnh tướng, là tướng nằm trên đỉnh đầu nhưng không thể thấy được
bằng mắt thường, chỉ có tuệ nhãn mới thấy. Theo diễn giải của các nhà Phật học
Đại thừa thì dưới cái nhìn của tuệ nhãn, tướng này có hình tướng bánh xa ngàn
căm, có nơi nói như hoa sen ngàn cánh, biểu thị cho trí tuệ, qua tướng này có
thể phân biệt được công đức tu hành nhiều hay ít.
(2) Tướng chữ "vạn" (Svastika): Trong các kinh tạng Pàli không thấy nói tướng chữ "vạn", các bộ A Hàm chỉ có kinh Sơ Đại Bổn Duyên nói đến, có thể tướng này được thêm vào về sau, cho nên không nói do tạo công đức gì mà có. Có 2 quan điểm giải thích về tướng chữ "vạn" như sau:
1/ Chữ "vạn" có nghĩa là Kiết tường, là một loại chữ linh thiêng của Ấn Độ, chữ linh này có khả năng đem đến mọi điều tốt lành may mắn (Từ điển PH, ĐTC)
2/ Chữ "vạn" biểu thị công đức vô lượng, từ bi vô lượng và trí tuệ vô lượng của Phật. Đó là biểu phù hiệu chứ không phải chữ viết. (TĐ PHVN, TMC). Có lẽ lúc đầu nó là một linh tự, về sau nghĩa gốc của nó biến đổi thành ý nghĩa biểu tượng cho sự viên mãn tâm, trí và đức. Hai tướng này đã trở thành biểu tượng gắn liền với các tượng Phật đang thờ hiện nay, đã được nhân dân hóa.
Ngoài hai tướng trên, một số kinh còn cho rằng đức Phật còn có tướng hào quang tỏa ra chung quanh thân thể khoảng một tầm. Tướng này không thấy nói tới trong các kinh mà chúng tôi đã trích dẫn, mà đề cập trong Luận tạng Pàli Katha-Vatthu.
(3) Tướng lưỡi rộng dài (Pahutaiivaho hoti) được diễn giải là lưỡi của đức Phật có thể liếm đụng tai được... Tướng này do công đức luôn nói lời chân thật dịu dàng, không thóa mạ người... mà có tướng lưỡi rộng dài. Trong kinh Di Đà có nói "Chư Phật mười phương lè lưỡi rộng dài che cả tam thiên Đại Thiên thế giới mà nói lời thành thật rằng..." Do đó tướng lưỡi rộng dài biểu tượng cho tính ngay thật nói năng đúng mức, không xảo trá.
Trên trình bày một số tướng mang tính biểu tượng tiêu biểu, trong phạm vi này không thể đề cập nhiều hơn. Tuy nhiên cũng đủ cho ta thấy ngoài các nghĩa thông thường, các tướng tốt còn có ý nghĩa sâu xa hơn và cao đẹp hơn.
3.4.
Ba mươi hai tướng tốt của Phật:
Đức
Phật, một con người toàn diện, không chỉ về mặt trí tuệ và đức hạnh mà còn về mặt
hình thể. Các kinh điển Nam truyền cũng như Bắc truyền đều có nói đến 32 tướng
tốt của đức Phật một cách đầy đủ, những tướng này được phát triển sau quá trình
tu tập đúng, liên tục, bền bỉ và lâu dài. Sau này đức Phật cũng xác nhận có đủ
32 tướng qua các kinh lưu truyền. Theo quan điểm tướng pháp Ấn Độ cổ, ai có đủ
32 tướng tốt thì sẽ làm vua thống lãnh thiên hạ, nếu xuất gia thì sẽ thành Phật.
Điều này cũng dễ hiểu vì khi tu tập liên tục, lâu dài, kiến thức sẽ tăng trưởng,
sức khỏe dồi dào, nhận thức xã hội, thế giới chính xác, chắc chắn thì việc trở
thành những nhà lãnh đạo ở bất cứ lĩnh vực gì cũng không phải là điều khó khăn.
Vì khi đó anh ta đã xuất chúng, vượt lên hơn hẳn mọi người xung quanh và phù hợp
với việc dẫn dắt và giúp đỡ họ. Sự kiện
Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng do tu luyện lâu dài đã báo hiệu Ngài không phải
là một người thường, đã thành tựu được quả vị Phật Đà và trở thành Phật Tổ của Phật
giáo.
3.5. Tám mươi vẻ đẹp của người Giác Ngộ
hay Đắc Đạo:
1/
Không thấy đỉnh tướng: chòm đỉnh đầu của Đức Phật càng nhìn càng cao, nên chẳng
thấy đỉnh.
2/
Mũi cao, lỗ mũi không lộ
3/
Lông mày như trăng non
4/
Dái tai rủ xuống
5/
Thân rắn chắc như na-la-diên
6/
Khớp xương chắc như móc khoá
7/
Một khi dở mình, xoay người thì như voi chúa
8/
Lúc đi chân cách mặt đất bốn tấc và hiện ấn văn
9/
Móng như màu đồng đỏ, mỏng và láng bóng
10/
Xương đầu gối rắn chắc tròn và đẹp
11/
Thân trong sạch
12/
Thân mềm mại
13/
Thân chẳng cong vẹo
14/
Ngón tay tròn mà thon nhỏ
15/
Vân ngón tay ẩn kín
16/
Mạch sâu chẳng hiện
17/
Mắt cá ẩn
18/
Thân bóng bẩy mượt mà
19/
Thân chẳng uốn éo
20/
Thân đầy đủ
21/
Dung nghi đầy đủ
22/
Dung nghi hoàn toàn
23/
Trụ xứ yên không động
24/
Oai chấn hết thảy
25/
Mọi chúng sanh thấy đều vui mừng
26/
Mặt chẳn dài to
27/
Dung mạo ngay chính không lệch lạc
28/
Mặt mũi đầy đặn
29/
Môi đỏ như quả Tần-bà
30/
Tiếng nói vang trầm
31/
Rốn sâu tròn đẹp
32/
Lông xoăn theo chiều bên phải
33/
Tay chân tròn trặn
34/
Tay chân như ý
35/
Vân tay sáng thẳng
36/
Vân tay dài
37/
Vân tay chẳng đứt
38/
Chúng sanh có ác tâm thấy Người thì đều hoà nhã vui vẻ
39.
Mặt rộng và rất đẹp
40/
Mặt mũi thanh tịnh và đầy đặn như vầng trăng tròn
41/
Nói năng hoà nhã với chúng sanh đúng theo ý thích của họ
42/
Lỗ chân lông toả ra mùi thơm
43/
Miệng toả mùi thơm tuyệt vời
44/
Dáng điệu, cử chỉ, dung mạo như sư tử
45/
Đi đứng oai vệ như voi chúa
46/
Tướng đi như ngỗng chúa
47/
Đầu như quả ma-đà-na
48/
Mọi thành phần đều đầy đủ
49/
Bốn răng cửa trắng và sắc
50/
Lưỡi màu đỏ
51/
Lưỡi mỏng
52/
Lông màu hồng
53/
Lông mềm mại sạch sẽ
54/
Mắt rộng dài
55/
Tướng tử môn đầy đủ
56/
Tay chân trắng đỏ như màu hoa sen
57/
Rốn chẳng lồi
58/
Bụng chẳng lộ
59/
Bụng thon
60/
Thân chẳng khuynh động
61/
Thân trì trọng
62/
Thân lớn
63/
Thân dài
64/
Tay chân mềm mại, sạch sẽ bóng bẩy
65/
Xung quanh có hào quang dài một trượng
66/
Khi đi có hào quang chiếu trên thân
67/
Coi chúng sanh bình đẳng như nhau
68/
Chẳng khinh chúng sanh
69/
Âm thanh tuỳ theo chúng sanh, chẳng tăng chẳng giảm
70/
Thuyết pháp chẳng chấp trước
71/
Tuỳ theo ngôn ngữ của chúng sanh mà thuyết giảng
72/
Pháp âm ứng với thanh của chúng sanh
73/
Tuần tự ứng với nhân duyên mà thuyết pháp
74/
Hết thảy chúng sanh ngắm thân tướng Phật mà chẳng ngắm hết
75/
Ngắm mãi không chán
76/
Tóc dài và đẹp
77/
Tóc chẳng rối
78/
Tóc xoăn đẹp
79/
Màu tóc như ngọc xanh
80/
Tay chân là tướng bậc có đức.
3.6. Ảnh hưởng và vẻ đẹp hình thể của đức Phật:
Nếu chúng ta bỏ qua một bên tướng tốt có tính cách bất định do các bộ phái ghi nhớ không chính xác, hoặc thêm bớt tùy tiện, bỏ qua một bên các tướng tốt có tính chất biểu tượng tôn giáo và sự tôn sùng của các đệ tử, ta có thể hình dung đức Phật là một đấng nam nhi cao ráo đẹp đẽ, cân đối, oai nghiêm thay đổi thái độ, đón tiếp Ngài nồng hậu, khi Ngài lên tiếng thì mọi người đều bị chinh phục hoàn toàn. Phải nói rằng hình tướng đẹp đẽ của Ngài đã đóng góp rất nhiều trên con đường hoằng hóa. Thanh niêm Vakkali con của một vị trưởng giả, đến nghe Phật thuyết pháp, nhìn thấy thân tướng đẹp đẽ của Ngài, Vakkali không nghe gì cả và chỉ chiêm ngưỡng thân tướng của Phật mà thôi, sau đó xin xuất gia để được gần Phật. Có lần đức Phật buộc Vakkali phải ở cách xa tịnh thất của Ngài, Vakkali buồn rầu, thất vọng và muốn tự tử. Nhân đó đức Phật giảng giải về sự vô thường của xác thân tứ đại, nhờ đó Vakkali giác ngộ. Quần chúng cũng vậy, họ ái mộ và đi theo Ngài không hẳn nhờ vào tài thuyết pháp của Ngài, mà còn nhờ vào thân tướng và phong cách đẹp đẽ siêu tuyệt của Ngài nữa.
3.7. Kết luận về 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật:
32 tướng tốt của đức Phật được các kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền nói đến rất phong phú. Điều đó khẳng định nét đặc thù trong đức tánh và đức tướng của đức Phật và cũng đem lại niềm hứng khởi cho các nghệ nhân cũng như các đệ tử về sau. Càng ngày hình ảnh của đức Phật được tái tạo, được tô điểm thêm do lòng kính trọng vô biên của đệ tử, hình ảnh của Ngài dần dần được siêu nhiên hóa. Thời kỳ Phật giáo Đại thừa phát triển, thân tướng của Ngài trở thành đối tượng triết học, hay trở thành biểu tượng của lý tưởng qua thuyết Tam thân Phật: Pháp thân - Báo thân - Ứng thân.
Dù cho thân tướng của Ngài được quan niệm như một người thường hay bậc thánh siêu nhiên, thì sự kính ngưỡng, lòng thành tín của con người đối với Ngài không thay đổi. Bởi lẽ ai cũng thấy được rằng giá trị của đức Phật không phải ở thân tướng mà ở sự giải thoát mà giáo lý của Ngài đem lại.
Con đường dẫn đến chân lý đã được mở ra, niềm hạnh phúc, sự giải thoát sẽ đến với những ai nỗ lực vươn tới, qua thực nghiệm chứ không phải qua sắc tướng như kinh Kim Cang đã nói: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai.
Nếu chúng ta bỏ qua một bên tướng tốt có tính cách bất định do các bộ phái ghi nhớ không chính xác, hoặc thêm bớt tùy tiện, bỏ qua một bên các tướng tốt có tính chất biểu tượng tôn giáo và sự tôn sùng của các đệ tử, ta có thể hình dung đức Phật là một đấng nam nhi cao ráo đẹp đẽ, cân đối, oai nghiêm thay đổi thái độ, đón tiếp Ngài nồng hậu, khi Ngài lên tiếng thì mọi người đều bị chinh phục hoàn toàn. Phải nói rằng hình tướng đẹp đẽ của Ngài đã đóng góp rất nhiều trên con đường hoằng hóa. Thanh niêm Vakkali con của một vị trưởng giả, đến nghe Phật thuyết pháp, nhìn thấy thân tướng đẹp đẽ của Ngài, Vakkali không nghe gì cả và chỉ chiêm ngưỡng thân tướng của Phật mà thôi, sau đó xin xuất gia để được gần Phật. Có lần đức Phật buộc Vakkali phải ở cách xa tịnh thất của Ngài, Vakkali buồn rầu, thất vọng và muốn tự tử. Nhân đó đức Phật giảng giải về sự vô thường của xác thân tứ đại, nhờ đó Vakkali giác ngộ. Quần chúng cũng vậy, họ ái mộ và đi theo Ngài không hẳn nhờ vào tài thuyết pháp của Ngài, mà còn nhờ vào thân tướng và phong cách đẹp đẽ siêu tuyệt của Ngài nữa.
3.7. Kết luận về 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật:
32 tướng tốt của đức Phật được các kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền nói đến rất phong phú. Điều đó khẳng định nét đặc thù trong đức tánh và đức tướng của đức Phật và cũng đem lại niềm hứng khởi cho các nghệ nhân cũng như các đệ tử về sau. Càng ngày hình ảnh của đức Phật được tái tạo, được tô điểm thêm do lòng kính trọng vô biên của đệ tử, hình ảnh của Ngài dần dần được siêu nhiên hóa. Thời kỳ Phật giáo Đại thừa phát triển, thân tướng của Ngài trở thành đối tượng triết học, hay trở thành biểu tượng của lý tưởng qua thuyết Tam thân Phật: Pháp thân - Báo thân - Ứng thân.
Dù cho thân tướng của Ngài được quan niệm như một người thường hay bậc thánh siêu nhiên, thì sự kính ngưỡng, lòng thành tín của con người đối với Ngài không thay đổi. Bởi lẽ ai cũng thấy được rằng giá trị của đức Phật không phải ở thân tướng mà ở sự giải thoát mà giáo lý của Ngài đem lại.
Con đường dẫn đến chân lý đã được mở ra, niềm hạnh phúc, sự giải thoát sẽ đến với những ai nỗ lực vươn tới, qua thực nghiệm chứ không phải qua sắc tướng như kinh Kim Cang đã nói: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai.
3.8.
Các
biểu hiện của Dưỡng khí công Nhất Nam Giai đoạn 4 và lượng hóa so sánh với sự Giác ngộ qua 32 tướng tốt và 80 vẻ
đẹp của Phật:
- Giai đoạn 4 của Dưỡng khí công Nhất
Nam có chu trình vận chuyển khí như vòng Đại Chu Thiên của Khí Công Trung Hoa,
tuy nhiên đường đi Nhâm Đốc ngược với họ.
- Người tu tập sau 4 giai đoạn đầu sẽ có
tướng mạo tương tự như 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật, tuy nhiên quá trình
tu tập cũng không dưới 6 năm liên tục, nghiêm túc theo các giai đoạn 1, 2, 3, 4
của Dưỡng khí công Nhất Nam .
- Gần tập hết giai đoạn 4 cơ thể sẽ tự động
chuyển từ tư thế Nhập định ngồi sang thế Kết già:
- Lúc đầu người tập Dưỡng
khí công Nhất Nam phải tập theo đúng hướng dẫn sách Nhất Nam Căn bản tập 1 của
Võ Sư Ngô Xuân Bính viết (Xin xem Phần 5 - Phương pháp tập Dưỡng khí công Nhất
Nam).
- Qua quá trình tu tập cơ thể sẽ có những biểu hiện đúng
như những gì sách đã mô tả. Tuy nhiên, tới giai đoạn 3 thì khi thở “bục” được
ra cơ thể sẽ rung lắc mạnh mẽ, kèm theo các động tác quyền nếu người tập đã tập
võ để lưỡi có thể bật ra với hàm trên.
- Các biểu hiện trong và sau giai đoạn 4
của Dưỡng Tâm Gia pháp - Phần I Nhất Nam Căn bản:
+ Cho
tới cuối giai đoạn này cơ thể sẽ tự chuyển động từ tư thế Nhập định ngồi sang
tư thế Kết Gìa mà không phải dùng tay chân cưỡng bức. Đây là một điều rất đặc
biệt để thấy rằng, khi con người ta bẩm thụ đầy đủ khí của thiên nhiên thì cơ
thể sẽ nở như bông hoa sen mà Phật vẫn ngồi và mô tả.
+ Việc
tự động chuyển dịch cơ thể từ tư thế Nhập định ngồi sang tư thế Kết Gìa sẽ diễn
ra cho tới mãi mãi sau này trong mỗi buổi tập, dù là giai đoạn trước 1,2,3 hay
các giai đoạn sau 5,6,7,8 khí Nhất Nam và
cả khi ngồi Thiền.
+
Hai lòng bàn tay sẽ tự đặt chồng lên nhau tại chính hai huyệt Lao Cung và cùng
hướng lên phía trên.
+
Hai chân sẽ tự đan lồng lên nhau và hai lòng bàn chân và cùng hướng lên phía
trên. Khi mỏi hai chân sẽ tự hạ xuống như tư thế Nhập định ngồi nhưng chân trái
sẽ tự chuyển vào trong và chân phải tự đặt ra ngoài (Nhất Nam ngược lại, chân
trái bên ngoài).
+ Trục
lưng tự đẩy lên thẳng đứng.
+ Miệng
tự cười tươi.
+
Hai tự mở mắt mở bình thường.
+ Cơ
thể cảm thấy vô cùng thoải mái.
+
Tai nghe thấy mọi âm thanh xung quanh nhưng không bị ảnh hưởng.
- Khi đầu óc có bất kỳ sự suy
nghĩ nào nổi lên thì lập tức cơ thể sẽ trở về như ngồi xếp bằng bình thường,
lưng còng xuống, hai tay không đan nhau, chân cũng tự hạ xuống, miệng thôi cười.
Vấn đề này là để cơ thể tự bảo vệ tránh hai luồng thông tin phát đi từ não khi
suy nghĩ nổi lên và luồng sóng vũ trụ cùng chạy trên một hệ thống thần kinh hoặc
các tế bào, có thể gấy tắc, vỡ, cháy chập, mắc bệnh tật, thần kinh.
Phần
3. Sáu Ba la mật để đạt tới Đại Giác ngộ và những vấn đề cần phải có trước
trong đó có Nhất Nam (sinh tồn và tồn vong)
3.1.
Có 6 ba la mat để tu tập đạt giác ngộ toàn phần là:
1. Bố thí
2. Trì giới
3. Khiêm tốn
4. Tinh tấn
5. Thiền định
6. Trí huệ
3.2.
Nhưng để làm được 6 điều này thì trước hết phải tồn tại đã:
1. Được sinh ra
2. Được nuôi dạy
3. Được học hành
4. Biết tự lập, tự do, tự
tại
5. Có khả năng tự lập, tự
do, tự cường
6. Phát triển kinh tế bản
thân, gia đình, xã hội
3.3. Con người và xã hội:
3.3.1. Để con người tồn tại và phát triển
được trong xã hội thì con người phải được:
(1) Lao động: Làm
một công việc tạo ra sản phẩm cho mình và người khác. (Việt nam ta làm nhân
công là chủ yếu: Ý thức + Tổ chức + Kỷ luật + Sáng tạo).
(2) Lắng nghe, quan sát và suy ngẫm:
Biết ứng xử cùng chung sống với mọi người xung quanh (Tồn tại).
(3) Nhận thức và học tập:
Hiểu được ý nghĩa của cuộc sống (Xây dựng niềm tin và phát triển).
3.3.2. Để cả xã hội tồn tại và phát triển
trong thế giới thì xã hội đó phải:
(1) Lao động: Tạo
ra sản phẩm cho thế giới (Việt nam ta là làm nhân công: Ý thức + Tổ chức + Kỷ
luật + Sáng tạo).
(2) Lắng nghe, quan sát và suy ngẫm:
Biết ứng xử cùng chung sống với thế giới (Tồn tại).
(3) Học tập, nhận thức:
Hiểu được ý nghĩa của cuộc sống (Xây dựng niềm tin và phát triển)
3.3.3. Ý nghĩa của cuộc sống:
(1) Sinh ra, lớn nên, già đi và chết:
Đây là 1 qui luật, không ai có thể tránh
được.
Sinh ra: Ai ai cũng như nhau trên toàn thế
giới này.
- Lớn nên:
Là sự khác biệt lớn nhất
trên thế giới này. Nó làm nảy sinh ra rất nhiều vấn đề đối lập: Giàu - Nghèo;
Cao - Thấp; Sướng - Khổ; Khỏe - Yếu; Khôn - Ngu; Cao cả, đạo đức - Tù, tội; Tự
do - Pháp luật. Chúng do các vấn đề sau quyết định:
+ Học tập
+ Lao động
+ Suy nghĩ
+ Tính cộng đồng (Tổ chức)
Vì vậy, việc quản lý
xã hội ở giai đoạn này là cần thiết và quan trọng nhất. Đặc biệt là việc làm.
- Gìa đi: Ai ai cũng như
nhau trên toàn bộ thế giới này.
- Chết: Cơ thể phân hủy ra
các chất. Hệ thống thống nhất của cơ thể bị hỏng 1 hoặc 1 số bộ phận nhất định
làm toàn hệ thống tê liệt. Dừng suy nghĩ và mọi hoạt động của não.
(2) Con người là 1 thành tố
của vũ trụ, vậy nó phải trường tồn cùng vũ trụ.
(3) Loài người tồn tại trong
một khoảnh khắc của vũ trụ.
(4) Vũ trụ có nhận thức và
con người cũng có nhận thức.
(4) a. Nhận thức của vũ trụ qua
sóng, hay chất vô cơ, nên sự tồn tại của nó trước và sau cả thời gian. Vì nó
không phụ thuộc vào bất cứ cái gì.
(4) b. Nhận thức của con
người nhờ não bộ, thuộc hữu cơ, nên thời gian tồn tại ngắn. Vì nó phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố.
3.4.
Con người và vũ trụ:
3.4.1. Biến nhận thức con
người song hành cùng nhận thức vũ trụ: Về trí tuệ, không gian và thời gian:
(1) Não muốn song hành cùng vũ trụ
nó phải mở để đón nhận vũ trụ bằng cách đóng các suy nghĩ thường nhật của não.
Hoặc chỉ nghĩ về một vấn đề liên tục (tụng kinh niệm Phật, nghĩ về chữ KHÔNG).
(2) Não khác với vũ trụ khi
nó suy nghĩ về các vấn đề
(3) Não cùng lúc suy nghĩ về
các vấn đề lại song hành tư duy cùng vũ trụ lập tức sẽ bị hủy hoại bởi sóng vũ
trụ chèn ép sóng não (Hết sức tránh vấn đề này khi tu tập). Vậy, chỉ một là suy nghĩ về các vấn
đề, hoặc hai là suy nghĩ về 1 vấn đề hoặc không vấn đề gì.
(4) Não = Vũ trụ chỉ
khi não là vô cơ. Vô cơ mới không phụ thuộc hữu cơ, vô cơ không phụ thuộc cơ
thể sống và vượt ra được ngoài cơ thể sống.
Ví dụ: Khoa học kỹ
thuật: Phim, ảnh, các tác phẩm, phần mềm. Tuy nhiên vẫn bị hủy hoại bởi không
gian và thời gian vì đó gồm nhiều chất vô cơ khác nhau.
Nó chỉ tồn tại được
cùng với vũ trụ khi nó là 1 chất vô cơ: Sóng vũ trụ có tư duy.
(5) Sự sinh ra của
sóng vũ trụ do vũ trụ vận hành và chuyển động:
- Tư duy của vũ trụ
vĩnh hằng vì Vũ trụ sống vĩnh cửu và vật chất tạo ra vũ trụ rất bền vững.
- Tư duy Con người
muốn vĩnh cửu thì vật chất tạo ra con người cũng phải rất bền vững.
- Vì vậy, con người
phải được hấp thụ tinh chất của vũ trụ và phải sống như vũ trụ thì mới có thể
tư duy vĩnh cửu cùng vũ trụ. Đó chính là khả năng hấp thụ sóng vũ trụ để kích
hoạt cho từng tế bào cơ thể thay vì chỉ ăn các thức ăn thông thường trên trái
đất.
- Các nhà tu hành
trên HIMALAYA đã thực hiện vấn đề này từ nhiều nghìn năm trước.
3.4.2. Khi
dừng những ý nghĩ thì vũ trụ sẽ tràn vào từng tế bào trong cơ thể, pha loãng
những tế bào đó với sóng vũ trụ, tạo ra sự mênh mang, diệu kỳ, thanh thoát của
cơ thể.
Nằm thì bay bổng, nâng nâng, ngồi thì lưng
thẳng, miệng cười, tâm hồn thanh thản, vui sướng.
Vũ trụ tạo ra mọi thứ, trong đó có ta, vì vậy
ta là một phần của nó. Chìa khóa để ta trở về với nó chính là trí huệ, tư duy,
nhận thức - phương thức phát triển cao nhất của vũ trụ càn khôn. Ta biết nghĩ
thì Trời Đất, vũ trụ phải biết nghĩ và suy nghĩ của nó tương đồng với độ tuổi
và độ lớn của nó, tràn ngập và bao la. Việc nhận thức về cái KHÔNG, cái phải
dừng lại mọi suy nghĩ để cho dòng chảy suy nghĩ VŨ TRỤ tràn ngập trong ta, biến
từng tế bào của ta cũng biết nghĩ theo nghịp điệu VŨ TRỤ mênh mang, huyền diệu.
Phần 4. Rút ra nhận thức mới về Giác ngộ
và các phương pháp tu tập để đạt Giác ngộ, đó là việc tiếp nhận được Vật chất
thông minh của vũ trụ vào bản thân khi dừng được tâm tư tưởng nảy sinh trong đầu
ở bất kỳ khoảng thời gian nào:
4.1. Nhận thức về vật chất thông minh:
Không mình, không ngoài
không ở đâu
Tự nhiên, tự tại tới thật
mau
Vui, buồn, tủi, giận đều qua
hết
Mình và tất cả lẫn vào nhau.
4.1.1. Phát hiện ra vật chất thông minh
4.1.1.1. Nguyên nhân:
Do sự
cảm nhận sâu sắc về tự nhiên và vũ trụ của những con người tu luyện lâu năm hoặc
những con người có phẩm chất đặc biệt bẩm sinh.
4.1.1.2. Sự cảm nhận:
Bình
thường con người ta phải tập trung trí tuệ, suy nghĩ cho việc học tập, lao động,
sinh sống, quan hệ, kinh doanh, tồn tại, buôn bán,chiến đấu, vui chơi, chống lại
bệnh tật, … và…với rất nhiều tình huống và lý do khác nhau. Nhưng khi mọi suy
nghĩ và trí tuệ đó không phải thực hiện (có thể nói là khi chết hoặc bắt đầu về
cõi chết) người ta sẽ không bị những ý nghĩ đó chi phối nữa. Chỉ trong một phần
bao nhiêu của giây lập tức họ sẽ có cảm nhận và thấy được một cảm xúc mãnh liệt,
một tác động tới khắp mọi tế bào trong cơ thể về một sự lạ kỳ. Đó là khi vật chất
thông minh xâm chiếm. Và đó là tại sao không ai có thể biết được và nắm rõ về
loại vật chất này kể từ xưa tới nay. Có một trường hợp khác là ngay trong cuộc
sống thường nhật cũng đã có một số con người tài hoa, lỗi lạc hoặc vô cùng may
mắn đã biết được về loại vật chất thông minh đó. Đó chính là những nhà khí công
cao siêu, những thiền sư viên mãn trở thành Phật, những con người sau khi trải
qua một tai hoạ hoặc biến cố nào đó trong cuộc đời. Về những con người đó, tư
duy và trí tuệ của họ không còn bị ảnh hưởng bởi những ý niệm, ý tưởng và tư tưởng
nào ở bên ngoài. Những biến động của cuộc sống đều không thể xâm chiếm, tác động
vì họ hoàn toàn tập trung ở một vấn đề như nhà khí công chuyên tâm tập trung vận
hành dòng khí lưu thông, hay vị thiền sư tập trung vào vấn đề KHÔNG để không vấn
đề gì có thể đưa vào đầu của họ. Qua quá trình luyện tập lâu dài ( 10 năm – 20
năm) họ có khả năng kiểm soát mọi suy nghĩ vẩn vơ, náo loạn vì đã kiên định được
ở vào một vấn đề KHÔNG hoặc một dòng khí lưu chuyển nhất định, liên tục. Trạng
thái đó cũng tương tự như con người sắp đi vào cõi chết, họ chỉ nghĩ mỗi đến vấn
đề CHẾT. Khi con người duy trì được ở trạng thái tập trung cao độ vào ở một vấn
đề đó, họ sẽ thấy ngay tức thì (phần trăm giây; sát na) một cảm giác bị một cái
gì đó khó giải thích xâm chiếm toàn bộ cơ thể, đó chính là vật chất thông minh
đã xâm nhập vào từng tế bào của bạn, kích thích nó và nuôi dưỡng chăm sóc nó.
Ngày xưa Phật gọi là “A di đà Phật” hay “Vô lượng quang thọ” hoặc Phật từ mười
phương tới. Ở những con người tu luyện do cơ thể khoẻ mạnh nên họ thấy ngay được
tự cơ thể chứ không phải ý thức của họ hành động:
(1)
Chân tay đan vào nhau tạo thành tư thế ngồi xếp bằng hoặc kết già.
(2)
Lưng thẳng đứng.
(3)
Miệng cười tươi.
(4)
Đầu óc vô cùng thoải mái: Trống rỗng và không vướng bận suy nghĩ gì. (Đây là gốc
của mọi vấn đề: (1), (2), (3), (5).
(5)
Có luồng khí chạy khắp cơ thể tới từng tế bào và như nâng người lên không
trung.
Nhưng
cũng ngay tại thời điểm họ đạt được như vậy mà lại bỏ sự tập trung và vướng vào
suy nghĩ, thì:
(a)
Chân tay buông, rũ.
(b)
Lưng còng.
(c)
Cơ thể cảm thấy không thoải mái, khó chịu.
(d)
Đầu óc mất tập trung: Đây là sự nguy hiểm nhất trong lúc tập. Vì vật chất thông
minh phải thoát bất ngờ, quá nhanh ra khỏi cơ thể, tạo cảm giác đau đớn, khó chịu.
Hệ thống thần kinh cơ thể tiếp nhận không được chủ động, hụt hẫng.
(e)
Cảm thấy nhói đau một điểm nào đó trong cơ thể
Ở
người sắp chết thì họ chỉ thấy trống rỗng và hoảng sợ do không có sự chuẩn bị,
tu tập từ trước vả lại cơ thể, tinh thần của họ lúc đó quá yếu không đủ để tiếp
nhận luồng khí lực đó.
4.1.2. Thực chất của vật chất thông
minh:
4.1.2.1. Tính phổ quát và bao trùm:
Như
trên đã nêu, vật chất đó từ mười phương tới (Phật từ mười phương tới) rất nhanh
trong một sát na. Có nghĩa là nó rất mạnh, nhanh, nhỏ và nằm ngay, sát và thường
trực xung quanh ta và có mặt ở mọi nơi, mọi lúc trong không gian và thời gian ở
khắp cùng mọi nơi, mọi lúc trong vũ trụ bao la và có khả năng thâm nhập vào
ngay cả những tế bào vô cùng nhỏ bé.
4.1.2.2. Vật chất thông minh chứa năng
lượng:
Mỗi
khi con người ta đạt tới không bị các ý tưởng chi phối, thì ai ai cũng vậy, từ
trẻ nhỏ tới người lớn, kể cả không tập gì thì cơ thể sống lưng được đưa thẳng lên
và con người lúc đó rất vững chãi. Đó là năng lượng của vật chất thông minh đã
tiếp sức cho khắp các tế bào trong cơ thể được nạp thêm năng lượng. Năng lượng
đó được trực tiếp hấp thụ qua cơ chế vận hành của tế bào thậm chí cả gen và ADN
để tạo ra năng lượng mới cho cơ thể. Đó không phải là năng lượng vật chất lấy từ
thức ăn, thức uống và phải tiêu hoá thành máu cộng với hít thở ôxy để nuôi cơ
thể. Con người luyện tập khí công, thiền khi đạt tới mức độ không bị những ý tưởng
làm nhiễu loạn, đầu óc tập trung vào một vấn đề không thay đổi vấn đề đó trong
một thời gian, thì cũng có ngay những sóng năng lượng thông minh đó chạy nhập
vào cơ thể trong một sát na. Điều này đã có rất nhiều nhà khí công, thiền sư trải
qua và đạt được trong hàng nghìn năm qua và đã nói lên. Đó là các trạng thái
giác ngộ, chứng, đạt, xuất thần, …v.v…
4.1.2.3. Tại sao lại gọi là vật chất
thông minh?
Khả
năng tạo cho vạn vật trong vũ trụ thích nghi để tồn tại trong hài hoà mà không
phá vỡ các qui tắc chung của hệ thống thống nhất.
Đó cũng
có thể nói là một tính chất thông minh và vô cùng đặc biệt của nó.
Tại
sao lại có vụ một thiên thạch bay vào trái đất để loài khủng long bị tiêu diệt
và loài thú phát triển, loài người ra đời?
Tại
sao lại chỉ có trái đất có đầy đủ điều kiện để phát triển sự sống mà các hệ
khác thì lại không? Mặc dù sự hình thành vũ trụ tạo ra khắp cả các thế giới chứ
không phải chỉ có trái đất.
Tại
sao chúng ta lại sinh ra vào gia đình này mà không phải sinh vào gia đình khác?
Tại
sao loài này bị tiêu diệt mà loài khác vẫn tồn tại?
Đó
là những câu hỏi mà chỉ có loại vật chất thông minh mới giải quyết được. Là vì
phải như thế, vì không sẽ ảnh hưởng tới sự ổn định của tự nhiên.
Khi
xưa các cụ chưa biết thì gọi đó là tại Trời, do Chúa. Ngày nay khi khoa học kỹ
thuật đã rất phát triển, con người đã đi vào vũ trụ mà Trời, Chúa, Phật vẫn là
những đấng linh thiêng mà ít ai dám xúc phạm.
Sự sống
chẳng nhẽ chỉ có một dạng như ở Trái đất?
Làm
thế nào mà các con tàu vũ trụ có thể đi khắp vũ trụ trong vài năm để khám phá,
khi mà vận tốc không thể nhanh hơn ánh sáng, con người sống có trăm năm?
Ngay
cả bản thân trong mỗi chúng ta cũng không ai có thể biết hết mình có bao nhiêu
tế bào, cái nào đang hoạt động, cái nào dang thoái hoá, cái nào cần năng lượng,
cái nào chưa cần. Bộ phận nào trong cơ thể hoạt động tốt, bộ phận nào có trục
trặc. Tại sao não hay suy nghĩ lung tung. Ai có thể kiểm soát được toàn bộ cơ
thể trong một giây, một phút, một giờ hay một ngày đâu, mà toàn bộ phải dựa vào
tự nhiên hay vật chất thông minh. Ta sẽ thấy rõ điều đó khi đầu óc ta tập trung
vào một vấn đề duy nhất trong một phần của giây.
4.1.3. Sự ảnh hưởng của suy nghĩ và dừng
các suy nghĩ tới vật chất thông minh:
4.1.3.1.
Suy nghĩ:
Khi
bản thân suy nghĩ các tín hiệu thần kinh được truyền khắp cơ thể để bảo vệ và
nuôi dưỡng cơ thể. Năng lượng cơ thể bị tiêu hao dẫn tới mệt mỏi, thậm chí bệnh
tật nếu suy nghĩ quá nhiều.
Kể cả
khi ngủ não vẫn làm việc một phần để bảo toàn nó qua các giấc mơ.
4.1.3.2.
Chủ động dừng suy nghĩ:
Lúc
này sóng não không bị bật lên, các sóng vũ trụ bắt đầu xâm nhập toàn bộ cơ thể.
Tất cả các tế bào trong cơ thể được tiếp năng lượng từ bên ngoài mà không mất
năng lượng của mình để vận hành.
Cơ
thể thấy thoải mái, vui vẻ và sung mãn vì khí lực tràn đầy.
Lâu
dần dần nó tạo ra một sức khoẻ và trí tuệ mới cho cơ thể mà không một loại thức
ăn nào có thể nhiều và nhanh bằng năng lượng thông minh này (vật chất dễ hấp thụ
và có nhiều năng lượng nhất).
4.1.4. “Tẩu hoả nhập ma” hay loạn khí:
4.1.4.1.
Lý do:
Tắc
nghẽn dòng lưu chuyển thông tin thần kinh do các dòng thông tin này chuyển động
hỗn loạn qua cùng một vị trí đường thần kinh dẫn truyền khi mất tập trung đột
ngột lúc tập một lần hoặc nhiều lần.
4.1.4.2.
Kết quả:
Cơ
thể không thể tự kiểm soát hay bị mất kiểm soát, rối loạn. Người ta gọi là: Loạn
khí; Loạn thần kinh; Tẩu hoả nhập ma; …
4.1.4.3.
Cách điều chỉnh:
- Để
tinh thần thoải mái tự nhiên nhằm loại bỏ những suy nghĩ lung tung và đưa não
trạng trở về trạng thái bình thường.
-
Luyện tập bằng cách tập trung vào phần đã được rèn luyện kỹ nhất, thành thạo nhất
để đưa về trạng thái bình thường hoặc tốt hơn.
4.1.4.4.
Chú ý phong cách sống:
- Sắp
xếp thời gian biểu hợp lý, khoa học, sao cho ăn, ngủ, làm việc, nghỉ ngơi, tập
luyện được thuận tiện nhất.
- Sống
phải tuân thủ lịch biểu đã đặt ra: Điều độ, giờ giấc.
- Lạc
quan, yêu đời.
- Chịu
khó lao động, học tập và rèn luyện.
4.1.5. Tập trung giải quyết các vấn đề:
- Tập
thì phải tập trung vào tập.
-
Suy nghĩ giải quyết công việc thì phải tập trung vào suy nghĩ giải quyết công
việc dứt điểm, không để lan man, kéo dài.
-
Không được để lẫn việc này vào việc kia, đặc biệt là việc tập và giải quyết
công việc. Vì:
+ Tập
luyện: Phải tập trung suy nghĩ vào việc tập thì mới có kết quả tập tốt.
+ Giải
quyết công việc: Cũng phải tập trung suy nghĩ để giải quyết công việc.
+
Các tế bào chỉ là một nên trong cùng một thời điểm nó không thể làm song song đồng
thời hai việc.
+ Nếu
trong cùng một thời điểm mà bắt một tế bào làm song song hai việc thì sẽ quá sức
chịu đựng của nó, gây đau đớn, tổn thương, thậm chí là bệnh tật.
4.1.6. Tại sao khi xã hội loài người
phát triển mạnh như hiện nay mà vũ khí giết chóc kinh khủng hơn hàng tỉ lần
xưa?
(1)
Nhận thức của loài người với thế giới chưa đi được ra khỏi hệ mặt trời tới những
thiên hà xa xôi và thuần phục nó.
(2) Nhận thức của loài người với loài người là ai
hơn ai, đàn áp, răn đe lẫn nhau trong sự cạnh tranh và khống chế lẫn nhau.
(3)
Nhận thức của loài người với tương lai nếu không đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau mà cứ
tiếp tục thế này thì không cứu nổi mình chứ đừng nói cứu được trái đất và giao
hoà với vũ trụ.
(4) Vậy phải nhận thức được thế giới
xung quanh ta với sự thống nhất của nó.
4.1.7. Giác ngộ và duy trì giác ngộ:
4.1.7.1. Giác ngộ: Khoảnh khắc cảm nhận
được sự thâm nhập của vật chất thông minh vào trong cơ thể, tâm hồn.
Thời
điểm mà cơ thể nhận thấy rõ rệt có dòng khí thâm nhập vào cơ thể từ mọi phía và
cơ thể cảm thấy sảng khoái, dễ chịu. Kèm theo đó là những biểu hiện người tự
nhiên vươn thẳng, chân tay đan vào nhau và hướng lên trên, miệng tự nhiên mỉm
cười tươi.
4.1.7.2. Duy trì trạng thái giác ngộ: Giữ,
duy trì được trạng thái giác ngộ liên tục trong bất cứ thời điểm nào:
Giác
ngộ chỉ là bước đầu vô cùng quan trọng để nhận thức và cảm nhận được chắc chắn sự có mặt của vật chất thông minh.
Tuy nhiên sau khi giác ngộ việc duy trì liên tục nó vào cơ thể một cách chủ động
để tăng cường thể lực và trí tuệ thì phải có quá trình tu luyện liên tục từ ba tháng tới sáu năm gian khó.
4.1.8. Tại sao phải tu luyện Thiền trong
rừng núi?
4.1.8.1.
Chưa thấy ai nói tu luyện Thiền ở biển, sông, sa mạc mà chỉ thấy nói tu tu luyện
Thiền ở trong núi rừng.
4.1.8.2.
Phải chăng cây cối, núi rừng là những sinh vật thu được nhiều khí nhất do hình
dạng thẳng đứng của nó dễ tiếp nhận sóng của vũ trụ luôn xuyên suốt. Thử nhìn
những cây cối tùng, bách, chò chỉ, … mấy trăm, nghìn năm mà vẫn tồn tại mặc
mưa, nắng, bão bùng.
4.1.8.3.
Sau khi giác ngộ các Thiền sư thường tìm tới núi rừng yên tĩnh, dựng lều tranh
và tu luyện nhằm xác định vững chắc sự giác ngộ của bản thân và chiêm nghiệm về
thế giới. Họ uống nước suối và ăn lá rừng để tồn tại cùng cách tu Thiền ở trạng
thái giác ngộ để cảm nhận và minh chứng sự tích luỹ năng lượng trong nó. Rừng
núi là nơi có điều kiện tốt nhất để dứt bỏ mọi ảnh hưởng ở bên ngoài tập trung
toàn bộ tinh thần hấp thụ và phát triển vật chất thông minh trong cơ thể.
4.1.8.4.
Sự vật, hiện tượng vận động không ngừng nghỉ trong toàn bộ vũ trụ qua hàng chục
tỉ năm qua. Vậy ai điều hành cả hệ thống này hoàn hảo và liên tục rất dài như vậy,
lại tỉ mỉ, chi tiết từ mức độ tế bào tới đại vũ trụ. Phải có một lượng vật chất
vô cùng tinh vi và đủ lớn chiếm lĩnh mọi ngóc ngách trong vũ trụ mới có thể có
năng lực điều hành này. Đương nhiên để điều hành được tổng thể thì nó phải có
tính liên kết đồng bộ, tư duy tổng thể và chi tiết, tốc độ tức thời không phụ
thuộc thời gian:
Đạo pháp tự nhiên ở trong ta
Xuất đầu lộ diện lúc manh
nha
Ra công tìm kiếm đâu chẳng
thấy
Thình lình nhảy xổ bổ vào
ta.
4.2.
Ảnh
hưởng của vật chất thông minh tới toàn bộ Vũ trụ:
Ngoảnh lại non xanh thấy bạc
đầu
Cuộc đời sự nghiệp được bao
lâu
Phong ba bão táp khi chìm nổi
Việc nào việc ấy vẫn viên
thôi.
4.2.1. Ảnh hưởng đối với đời sống xã hội
và tự nhiên con người:
Thật
lạ là vật chất này ảnh hưởng tới tất cả mọi mặt đời sống xã hội, tự nhiên, con
người và toàn bộ vũ trụ bao la.
Nhờ
có nó mà mọi vật được sinh ra, phát triển, rồi lại chết đi để sau đó tạo ra một
chu kỳ mới của vật chất luân chuyển theo thời gian. Ngày xưa con người gọi đó
là “đạo”, “khí”, “vô vi”, “a di đà Phật” vì không ai nhìn thấy nó, nhưng đều thấy
rõ sự ảnh hưởng của nó tới vạn vật và đời sống hàng ngày.
“Bốn mùa thay lá
Bốn mùa ra hoa”
Nhạc
sĩ Trịnh công Sơn có một cảm nhận tự nhiên về sự thay đổi của tự nhiên.
Xuân
đến, xuân đi vạn vật thay đổi theo thời gian. Vũ trụ sinh ra và vận hành, các
thiên hà chuyển động trong vũ trụ bao la. Trái đất quay quanh mặt trời. Hệ thống
sinh thái trên trái đất sinh sôi và nương tựa vào nhau tạo thành một môi trường
sống và một chỉnh thể thống nhất không thể tách rời. Cái nọ ảnh hưởng tới cái
kia mà không cần tới sự điều phối của con người, thiết bị. Hệ thống sinh thái
được tạo ra từ nguyên thuỷ của trái đất, của vũ trụ, trước khi loài người sinh
ra và có hiểu biết như ngày hôm nay.
4.2.2. Ảnh hưởng của vật chất thông minh tới toàn bộ Vũ trụ:
Đầu
tiên, chúng ta phải khảng định rằng nó là một loại vật chất siêu thông minh. Bởi
qua nó vũ trụ được hình thành, vận hành nhờ nó và phát triển hoặc diệt vong đều
qua nó chỉ đạo, điều phối.
Nó
thay mặt cho tất cả các loại vật chất khác trong tự nhiên để điều phối tự
nhiên, tạo ra sự phát triển cân bằng, ổn định và đột biến khi thấy cần thiết
cho sự ích lợi của tự nhiên.
Ví dụ
quá trình tạo ra vũ trụ, các thiên hà, các thái dương hệ, trái đất, các hệ sinh
thái và kể cả loài người.
Thực
chất đó là loại vật chất có tính chất như các loại vật chất khác:
TT
|
Vật chất khác
|
TT
|
Vật chất thông minh
|
1
|
Sóng,
từ, điện
|
1
|
Sóng,
từ, điện
|
2
|
Chuyển
động
|
2
|
Chuyển
động
|
3
|
Năng lượng
|
3
|
Năng lượng
|
4
|
Tập
trung
|
4
|
Tập
trung
|
5
|
Không có
|
5
|
Trí tuệ
|
6
|
Không
có
|
6
|
Bao trùm toàn bộ vũ trụ to lớn nhất tới nhỏ
tế bào nhỏ bế nhất của cơ thể
|
7
|
Không
có
|
7
|
Có
tốc độ nhanh hơn ánh sáng. Vì ánh sáng phải có thời gian để di chuyển. Nó
không cần thời gian đã tràn ngập khắp cả mọi nơi trong vũ trụ hoặc cơ thể khi
cơ thể đạt được sự tập trung bất cứ khi nào, vào bất cứ thời điểm nào.
|
4.2.3. Ứng dụng của vật chất thông minh
vào cuộc sống:
Quốc
gia và con người ứng dụng được lâu nhất, bền bỉ nhất ngàn năm qua có lẽ là Nhật
bản. Do địa lý độc lập trên đảo quốc và ít bị thế giới bên ngoài chi phối. Họ
lĩnh hội được Thiền từ rất sớm và duy trì, phát triển đưa nó vào mọi hình thức
của cuộc sống thường nhật. Do vậy con người họ điềm đạm, từ tốn, trí tuệ và tính
cách rất mãnh liệt.
Kế đến
là Trung quốc, Triều tiên, Việt nam còn nhiều dư vị của Thiền.
Để cảm
nhận được vật chất thông minh người ta thường thông qua tu tập Khí, Thiền,
Yoga, Thái cực quyền để cảm nhận và đạt được trạng thái đó.
Ở mỗi
chúng ta khi thành tựu đạt được nó thì đều có thể thấy nó thông minh hơn hẳn
chúng ta trong mọi việc, ở mọi nơi, mọi lúc. Ví như việc sắp để một đôi giầy,
dép cho tới vận mệnh cuộc đời của mỗi con người, một dân tộc, một đất nước và cả
thế giới này.
Nhờ
đó mà người ta biết được quá khứ, tương lai mà không phải qua nghiên cứu, khảo
cổ. Vì vậy, có thể nói vật chất thông minh có tính chất lưu giữ thông tin rất
lâu và có tính chất suy tưởng tương lai rất xa
Từ tốn, chậm rãi, thoải mái tư tưởng là
một trong những điều kiện tiên quyết để nó tới với chúng ta.
Có
nó sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho chúng ta ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn
cảnh dù là khốc liệt nhất. Đó là tính xây dựng và nhân đạo của vật chất thông minh.
4.2.4. Làm thế nào để đạt được và sử dụng được vật chất thông minh:
4.2.4.1. Mục tiêu:
(1)
Xưa:
Phật,
các nhà Yoga, Thiền sư, Khí công, Pháp thuật, … của các châu lục đã tập luyện
và sử dụng nó để rèn luyện sức khoẻ và nhận thức thế giới qua sự cảm nhận về
nó.
(2)
Nay:
- Nhận
thức được quá khứ, hiện tại tương lai của Bản thân, Vũ trụ thông qua vật chất
thông minh.
-
Phát hiện ra nơi và nguyên nhân phát sinh ra vật chất đó.
- Phổ
biến qua sách báo, truyền thông và thực tế cuộc sống để mọi người trên khắp thế
giới cùng học tập.
- Để
mọi người cùng nhìn nhận nó dưới góc độ khoa học, dễ hiểu, dễ áp dụng.
- Nó
vẫn thường xuyên tác dụng vào chúng ta ở mọi nơi, mọi lúc.
-
Nâng cao đạo đức, an tâm, lạc quan cùng nhận thức của mọi người.
- Nó
có mặt khắp nơi trong vũ trụ bao la và làm nhiệm vụ quản lý, điều hành và sáng
tạo vũ trụ.
- Ai
ai cũng có thể rèn luyện để làm chủ và ứng dụng nó vào đời sống của mình để làm
tốt cho thế giới và toàn thể vũ trụ.
- Chỉ
có loài người mới có thể cảm nhận, nhận thức và làm chủ nó vì con người là một
bộ máy hoàn hảo nhất trong các bộ máy của vũ trụ.
4.2.4.2. Phương pháp đối với mỗi con người:
Cố gắng
dùng mọi thời gian trong ngày để rèn luyện Khí, Thiền, Thái Cực Quyền qua tu tập
và hướng dẫn mọi người tu tập.
Từ tốn,
thoải mái và chu đáo, tỉ mỉ, hoàn hảo với mọi việc.
Quan
sát thế giới xung quanh và bản thân để phát hiện và minh chứng về loại vật chất
thông minh: Tính KHÔNG: thời gian; không gian; tính thông minh ảnh hưởng tới
toàn bộ vũ trụ.
4.2.4.3. Tài liệu nghiên cứu tham khảo:
-
Thiền; Khí; Yoga; Thái cực quyền; Tuý quyền.
- Vật
lý: Lực, Ánh sáng; Lượng tử; Hạt nhân; Sóng; Vật chất.
-
Sinh học: Tế bào và sự trao đổi chất.
-
Tâm linh; Tâm lý; Triết học: Phật; Lão.
- Lịch
sử; Toán học; Thư pháp.
4.2.4.4. Các thành tựu Năng lượng do vật
chất thông minh cung cấp:
- Phật
Tổ sau khi Giác ngộ đã ngồi dưới cây Bồ đề 49 ngày đêm để minh chứng và duy trì
sự liên tục của Giác ngộ (khả năng thu nhận vật chất thông minh và tính năng lượng
mà nó cung cấp cho cơ thể sống).
- Sư
tổ Đạt Ma nằm dưới mộ và tự bật lên trở về Ấn độ lúc 150 tuổi.
-
Các Thiền sư Việt nam sau khi Giác ngộ đều phải rèn luyện tiếp khảng định chắc
chắn sự Giác ngộ đó và thấy rõ được tác dụng của nó đối với cơ thể.
4.2.4.5. Các phương tiện để đạt tới sự cảm nhận và sử dụng vật chất
thông minh:
(1) Thiền:
Không; Vô; Kệ; Chấp nhận; Mặc; … Nhằm duy trì ý nghĩ tập trung vào một vấn đề để
tránh các ý nghĩ khác nổi lên làm ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất thông
minh vào cơ thể.
(2) Khí: Tập
trung ý nghĩ vận hành dòng khí theo những đường đi nhất định trong cơ thể cũng
là nhằm tránh các ý nghĩ khác nổi lên làm ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất
thông minh vào cơ thể.
(3) Thái cực quyền: Thoải
mái tinh thần, vận động toàn cơ thể từ tốn, liên tục cũng là nhằm tránh các ý
nghĩ khác nổi lên làm ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất thông minh vào cơ thể.
(4) Yoga: Tập
trung tinh thần vận động cơ thể chịu đựng các động tác theo thời gian cũng là
nhằm tránh các ý nghĩ khác nổi lên làm ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất thông
minh vào cơ thể. Hoặc tập trung tinh thần như Thiền.
(5) Tụng kinh: Tập
trung tinh thần đọc các bài kinh cũng là nhằm tránh các ý nghĩ khác nổi lên làm
ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất thông minh vào cơ thể.
(6) Dân ca Quan họ Bắc ninh: Hát
các giai điệu dịu dàng, đằm thắm, liên tục cũng là nhằm tránh các ý nghĩ khác nổi
lên làm ảnh hưởng tới việc hấp thụ vật chất thông minh vào cơ thể.
4.2.4.6. Sinh hoạt hàng ngày và lối sống
bản thân: ( 6 Ba la mật):
Thực
hành liên tục trong cuộc sống hàng ngày và suốt cả cuộc đời:
(1)
Luôn giúp đỡ người khác theo khả năng của mình.
(2) Biết giữ giới hạn, có chừng mực.
(3)
Khiêm tốn học hỏi.
(4)
Luôn nỗ lực vượt lên những khó khăn gặp phải.
(5)
Rèn luyện các theo các phương pháp phù hợp để tích luỹ vật chất thông minh: Thiền; Khí; Thái cực quyền; Yoga; Tụng kinh; Dân ca Quan họ Bắc ninh.
(6)
Nhìn nhận, suy nghĩ các vấn đề phải toàn diện, thấu suốt trước khi quyết định.
4.2.4.7. Các kết quả đạt được khi cơ thể
thu được vật chất thông minh trong quá trình rèn luyện:
Khi
tư duy không bị chi phối bởi các ý nghĩ nổi lên (khi chỉ có một ý nghĩ hoặc
không có ý nghĩ nào) thì cơ thể sẽ tự động thể hiện các cách sau mà không có ý
nghĩ chi phối các thể hiện đó:
(1) Lưng
tự nhiên thẳng đứng.
(2) Mặt
tự nhiên tươi cười.
(3)
Hai chân tự nhiên đan chéo lồng vào nhau và lòng bàn chân hướng lên trên.
(4) Hai
lòng tay tự nhiên đặt lên nhau và hướng lên trên.
(5)
Cảm thấy có vô số các luồng không khí xâm nhập, thẩm thấu khắp cơ thể từ mọi
phía. Cơ thể nhẹ nhõm như bay lên.
(6)
Thể lực thấy sung mãn, no đủ.
( Có thể xem các tượng Phật ngồi toà sen
là hình ảnh minh chứng rõ nét nhất).
(7) Chú ý:
Không được suy nghĩ lung tung trong quá trình tập trung này. Bởi vì nếu suy
nghĩ lung tung trong quá trình tập trung này một số bộ phận trong cơ thể sẽ bị
đau đớn và các thể hiện từ (1) – (6) sẽ mất ngay trong giây lát.
(8) Thiết bị đo lường vật chất thông
minh: Tạm thời thì chưa có một dụng cụ nào của nhân loại có khả
năng đo đếm việc này trừ cảm nhận của con người. Vì chính con người là là một
thiết bị hoàn hảo và thông minh nhất của vũ trụ. Vì vậy, chỉ có con người mới
có thể cảm nhận và đánh giá được mức độ của vật chất thông minh.
4.2.5. Sự kì diệu của Thiền:
4.2.5.1. Kết quả của việc tập thể dục thể
thao:
Các
môn thể thao đều tốt do mang lại sức khoẻ cho mỗi con người qua vận động cơ thể
bằng các môn chạy, nhẩy, đá bóng, cầu lông, trượt tuyết, ….. Mỗi môn đều có
cách rèn luyện chuyên biệt một nhóm hoặc hệ cơ bắp nhất định trong cơ thể. Điều
đó giúp tăng cường sự trao đổi chất tốt hơn cho cơ thể.
4.2.5.2. Kết quả của việc tập Võ:
Tập
luyện võ thuật cũng vận động như thể thao nhưng cơ thể phải vận động toàn bộ
các nhóm cơ để tạo ra những lực lớn nhất qua một số bộ phận trong cơ thể. Do vậy
cơ thể được vận động tổng thể chứ không chỉ một hoặc một số nhóm cơ chuyên biệt
như thể thao. Điều đó giúp tăng cường sự trao đổi chất tốt hơn cho cơ thể.
4.2.5.3. Kết quả của việc tập Khí:
Việc
tập luyện này thường là sự phối hợp cả các hệ cơ như cơ hoành và sự tập trung
tinh thần để điều khiển dòng khí vận hành trong cơ thể. Có nghĩa là cả cơ bắp,
nội tạng, tinh thần cùng tập trung làm việc vận động. Điều đó giúp tăng cường sự
trao đổi chất tốt hơn cho cơ thể.
Yoga cũng bắt cơ bắp,
tinh thần và nội tạng phải làm việc chịu đựng khi cơ thể bị ép buộc theo những
thế nhất định cố định cùng thời gian. Điều đó giúp tăng cường sự trao đổi chất
tốt hơn cho cơ thể.
4.2.5.4. Kết quả của việc tập Thiền:
Thiền
thì cơ bắp, nội tạng không vận động. Nhưng tinh thần thì tập trung để không bị
ngoại cảnh và các suy nghĩ của chính bản thân ảnh hưởng tới tinh thần của bản
thân. Từ đó vật chất thông minh ở bên ngoài thâm nhập vào cơ thể tạo ra năng lượng
làm cơ bắp và nội tạng vận động. Vì vậy cơ chế này ngược với các cơ chế trên do
hấp thụ và trao đổi chất trực tiếp với sóng vũ trụ ngoài cơ thể mà không dùng,
hoặc dùng rất ít những vật chất truyền thống qua đường ăn uống, hít thở. Như vậy
cơ thể cần ít năng lượng nhất mà lại thu được kết quả cao nhất, chất lượng nhất.
Tuy
nhiên, việc kiên trì luyện tập và sự quyết tâm cao lại là cản trở chính để mỗi
người có thể tập được Thiền, vì nó trừu tượng, khó nắm bắt, chưa được lượng hoá
để phổ biến rộng rãi.
4.3.
Quan họ Bắc Ninh hay tu Tịnh Độ Tông kiểu Việt nam sáng tạo:
Ai ai người Việt đều biết
truyện Kiều được sáng tác bởi cụ Nguyễn Du. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về Quan
họ sẽ đều nhận ra số lượng ca từ trong thơ Quan họ cổ có một số lượng rất lớn
trong Kiều. Ví như:
"
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút
lòng trinh bạch từ sau xin chừa".
Thì trong bài "Thân
lươn bao quản lấm đầu của Quan họ cổ là đã có chứa ca từ đó rồi.
Bài khác: "Nhân sinh
thích chí ở đời" có câu " Mùa xuân chơi hội cỏ non" thì Kiều có:
"Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điển một vài bông hoa".
Hay trong Quan họ cổ có bài
"Nhớ cảnh nhớ người":
"Bâng
khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ
nơi kỳ ngộ vội rời chân đi".
thì trong Kiều có y nguyên:
"
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ
nơi kỳ ngộ vội rời chân đi.
Một vùng
cỏ mọc xanh rì,
Nước
ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu".
Cách ăn nói trong Quan họ
cực kỳ hoa mỹ, văn hóa, trơn tru và sáng tạo. Có lẽ cụ Nguyễn Du do đã có một
thời kỳ rất dài sống ở Bắc ninh quê mẹ nên Quan họ ngấm trong Cụ sâu đậm. Vả
lại gia đình Cụ là Đại gia về thơ phú, triết học, văn học, ngoại giao nên khi
tâm can Cụ kinh qua hoàn cảnh xã hội Cụ mới xuất thần ra Kiều. Đọc các tác phẩm
khác của Cụ Nguyễn như tập "Bắc hành tạp lục" không thể thấy câu từ
xuất thần như Kiều được.
Vậy tại sao Quan họ lại cao
siêu và mê hoặc tới vậy?
Quan họ xuất phát từ Bắc
Ninh, cái nôi của Phật giáo Việt. Giai điệu Quan họ tựa như lời kinh tụng trong
Phật giáo và có lẽ do tác dụng của Phật quá tốt, quá mạnh nên các Thiền sư Việt
đã chuyển hóa các giai điệu của kinh thành giai điệu Quan họ như các bài hát ta
vẫn hay nghe để giáo hóa Phật vào cuộc sống, làm cho cuộc sống, xã hội tốt đẹp,
an vui, khỏe mạnh hơn. Thật sáng tạo, thật tuyệt vời, một cách luyện Thiền hay
nhất mà chúng ta có thể thấy cho tới thời điểm này. Cả tỉnh Bắc Ninh luyện,
Unesco công nhận Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Từ người
già tới con trẻ đều có thể hát, hát từ ruộng đồng tới những nơi tôn nghiêm
đình, chùa cửa Phật. Nếu chỉ tụng kinh là đã rất tốt rồi, nhưng có phải ai ai
cũng biết được, hiểu được sự sâu sắc và tác dụng của tụng kinh Phật. Đây là sự
sáng tạo và dũng cảm phi thường để đưa kinh Phật vốn tôn nghiêm vào thẳng cuộc
sống xã hội hỗn tạp, xô bồ. Lời lẽ của các bài Quan họ thì 99% là về tình yêu
đôi lứa, cái hấp dẫn nhất, tự nhiên nhất của loài người.
Vậy tại sao lời tụng kinh
lại tốt và có tác dụng như việc luyện Thiền vậy?
Nguyên lý của Thiền là định
được tư tưởng không để đầu óc suy nghĩ tán loạn để sóng vũ trụ có thể thâm nhập
vào cơ thể (ngày xưa các cụ gọi là Phật, hay giác ngộ, hay nhập Đạo). Tụng kinh
cũng vậy lời tụng được đọc theo nhịp điệu liên tục để đầu óc không kịp nghĩ
ngợi lung tung mà bắt buộc phải tập trung vào vấn đề tụng, lâu dần sóng vũ trụ
hỗ trợ và bồi dưỡng sức khỏe, trí tuệ để người tu tụng tiến bộ trở thành Phật.
Áp dụng nguyên lý đó các cụ đưa vào các bài Quan họ theo các giai điệu khác
nhau với lời lẽ phong phú làm cho người hát yêu thích, xã hội chấp nhận nên nó
tồn tại mãi bắt chấp thời gian, không gian.
Vậy có thể thấy vũ trụ mênh
mông rộng lớn mà lại hàm chứa đầy đủ trong cả những cái nhỏ nhất như giai điệu
và ca từ Quan họ, thật tinh tế, thật phi thường, thật trí tuệ và hơn tất cả khi
cất lên lời thì ai ai cũng thích thú và hạnh phúc.
Phần 5 - Phương pháp tập Dưỡng khí công
Nhất Nam - Các kết quả đạt được khi tập - Những điều cần chú ý
(Trích toàn bộ sách Nhất Nam Căn bản tập
1, 2 và một số kinh nghiệm bản thân)
Đây là một trong số các bài luyện nội công
của môn phái, có yếu quyết đơn giản, dễ tập, có thể thu được kết quả nhanh
chóng sau một quá trình luyện tập liên tục từ 5 – 10 tháng. Yêu cầu căn bản của
bài tập này là tập đúng yếu quyết, kiên trì tự mình phải thắng được sức ỳ của chính
mình.
Hiệu
quả của việc tập nội công là dưỡng khí, bổ tâm, làm cho cơ thể có khả năng dễ
dàng thích ứng với mọi môi trường, vận động cơ bắp dễ dàng, trí não sáng suốt,
sức bền, độ mạnh, tính nhanh nhẹn và phản xạ được nâng cao. Đặc biệt tập “Dưỡng
tâm gia pháp” khi thành đạt, cho phép người luyện chủ động thư giãn được trong
mọi hoàn cảnh, tự mình có khả năng phục hồi sức khỏe nhanh nhất và ngược lại
cũng rất dễ dàng bắt cơ thể làm việc ở mọi hoàn cảnh: Đột ngột, nặng nề hoặc
đơn điệu, nhàm chán,…
Việc
tập “nội” không thể ngay một lúc nhận thấy hết được hiệu quả lớn lao của nó,
cũng như mốc kết thúc thời gian. Người tập 1 năm có kết quả 1 năm, tập 5 năm,
10 năm có kết quả 5 năm, 10 năm. Nhưng chắc chắn khi đã có được một vài phát hiện,
nhận thấy những tiềm năng ẩn tàng trong đó sẽ không mấy ai lại bỏ cuộc. Bài tập
“Dưỡng tâm gia pháp” có 8 giai đoạn:
1.
Giai
đoạn 1:
1.1.
Hít
vào:
Ở tư thế “Nhập định ngồi”, từ từ hít sâu hơi qua lỗ mũi, tưởng tượng dòng khí
đó đi qua u mày, đỉnh đầu, gáy rồi đi dọc sống lưng vào hậu môn tụ ở “đan điền”
(vùng bụng dưới rốn 2,5 cm). Lúc này nén khối khí đó lại ở “đan điền” và uốn lưỡi
vồng lên, phần dưới phía đầu lưỡi tỳ vào hàm trên (lúc này chức năng của lưỡi
như một chiếc van đậy kín cuống họng).
1.2.
Thở
ra:
Khi cơ thể thực sự có nhu cầu thở ra thì từ từ dồn khối khí đó qua rốn, vùng ức,
cổ rồi ép tụ ở vùng cuống họng cho đến khi tự nó đủ mạnh đẩy bật lưỡi về vị trí
ban đầu (khối hơi thoát ra khỏi miệng tạo nên tiếng kêu gọn “bục”).
1.3.
Chú
ý:
Khi thở ra bụng phải hóp vào, càng lõm càng tốt. Tuần tự thực hiện các chu
trình hít vào, thở ra đúng như trên từ 30 – 60 phút, ta được một buổi tập “Dưỡng
tâm gia pháp”.
1.4.
Kết
quả đạt được: Sau một quá trình vài tháng, hoặc hơn một
năm, ngày nào cũng tập hai lần: sáng khi vừa ngủ dạy và tối trước khi đi ngủ. Cũng
có thể tập lúc rảnh rỗi và đặc biệt lúc chiều tối tập rất có kết quả, dễ tập
trung tinh thần. Tập ở nơi thoáng gió, yên tĩnh và tập lúc tinh thần thư thái,
tập trung tư tưởng thì chúng ta sẽ thu được những kết quả cụ thể sau:
-
Bụng nóng, mỗi lần vận khí có tiếng sôi òng ọc
trong bụng (do cơ hoành bị đẩy lên khi thở ra, hóp bụng vào và ép xuống khi hít
vào phổi, phổi phình lên gấp 2,5 lần bình thường – phổi sẽ chữa 5 lít không khí
– khi bụng phình lên. Lúc đó nội tạng, gan ruột bị nén kêu òng ọc).
-
Gan bàn chân, bàn tay nóng.
-
Đỉnh đầu ấm.
-
Có thể người rung lắc, xoay đảo, chân tay múa
may, là do các đường kinh lạc trong cơ thể lâu ngày bị ứ trệ, nay dùng ý dẫn
khí làm cho khí huyết lưu thông, các hệ thống thần kinh này sẽ tự điều khiển cơ
bắp chuyển động để lưu thông khí huyết.
-
Đạt được như thế, cơ thể bắt đầu thấy sảng
khoái sau một buổi tập, ăn lúc nào cũng thấy ngon, ngủ lúc nào cũng sâu, khí
huyết lưu thông. Các bệnh tật trong người bắt đầu thuyên giảm. Lúc đó mới chuyển
sang giai đoạn 2.
·
Nhập
định ngồi: là tư thế
" tĩnh tọa " vận công luyện khí - một hình thức điều hoà hơi thở ,
thư giãn cơ bắp, hồi phục sự căng thẳng các cơ quan nội tạng và các chức năng
vận động một cách hợp lý nhanh nhất do các võ sư, y sư trước kia tổng kết, tinh
chế sáng tạo nên.
H.11
là hình giới thiệu minh hoạ thế “nhập định ngồi ". Yêu cầu căn bản của tư
thế này là diện tiếp chạm của chân với mặt bằng (nơi ngồi) phải lớn nhất, trục
lưng thẳng, đầu hơi cúi (cằm hơi đưa vào trong, hơi kéo lên phía trên, cần dùng
ý không dụng lực, cơ thể thả lỏng), bụng thả lỏng, hậu môn hơi co lên, thế ngồi
thoải mái, mắt nhắm "hờ" tinh thần phải thư thái, lưỡi cong lên đầu
lưỡi đặt nhẹ lên nóc họng (từ chân răng kéo vào khoảng hơn 1cm).
2.
Giai đoạn 2:
2.1. Hít vào: Ngồi đúng như giai đoạn 1, thực
hiện chu trình hít khí vào cho tụ ở đan điền, giống như chu trình giai đoạn 1.
Nhưng khi đã tích đủ khí ở đan điền thì không từ từ dồn lên cuống họng đưa ra, mà
tập trung tinh thần vận khối khí đó chạy vòng quang rốn theo chiều kim đồng hồ
2 vòng, sau đó cho chạy ngược lại 2 vòng xung quang rốn.
2.2. Thở ra: Khi đã tiến hành xong chu trình vận
khí chạy quanh rốn, dồn tụ khí lại tại đan điền tới khi nào có nhu cầu thở ra
thì từ từ dồn khối khí đó qua rốn, vùng ức, cổ rồi ép tụ ở vùng cuống họng cho
đến khi tự nó đủ mạnh đẩy bật lưỡi về vị trí ban đầu (khối hơi thoát ra khỏi
miệng tạo nên tiếng kêu gọn “bục “) giống giai đoạn 1.
2.3. Kết quả: Sau một quá trình dài tập luyện khi
nhận được chính xác những hiện tượng cụ thể như sau:
-
Khi
tập thấy cơ thể nhẹ nhõm, lúc lắc có cảm giác bay bổng ;
-
Tai
nghe có tiếng lục bục, tóc dựng đứng ;
-
Hai
cẳng chân nhấp nhỏm như sắp sửa bật ra ;
-
Hai
tay quyền rung mạnh.
-
Đạt
được như vậy, tuỳ thể tạng sức khoẻ và tính chất bệnh tật mắc phải trước đó của
từng người mà thể lực sức mạnh tăng tiến khác nhau, nhưng so với kết quả thu
được của giai đoạn 1 thì độ tăng tiến của giai đoạn này hơn nhiều. Sau khi hoàn
tất giai đoạn 2 mới được chuyển sang giai đoạn 3.
3.Giai đoạn 3:
Đây
là giai đoạn đòi hỏi một sự nỗ lực cao nhất, mất thời gian sức lực nhiều nhất.
3.1.
Hít vào: giống giai
đoạn 1, khi khối khí đã tụ đầy đủ ở đan điền, từ từ vận lên vùng ngực đẩy sang
phải, đẩy sang trái như thế mỗi bên 3 lần, sau đó lại dồn khí trở lại đan điền.
3.2.
Thở ra: giống giai
đoạn 1.
3.3. Kết quả: Sau một quá trình dài, khi phát hiện
được những hiện tượng sau:
- Mỗi lần vận khí ngực từng bên
phồng cao;
- Thóp đầu hơi nhô, gờ gáy hơi phình;
- Đầu ngón tay, ngón chân khi tập
như có khí phun ra;
- Hai đầu vú, hai hõm nách, gan bàn
chân, gan bàn tay nóng ran và khá đau khi đang vận khí.
-
Đạt được như vậy có thể coi như thanh công lúc này mới được chuyển sang tập
giai đoạn 4.
4. Giai đoạn 4:
Đây
là giai đoạn không cần thiết cho người tập “dưỡng sinh“ nhưng là giai đoạn rất
cần thiết cho người luyện võ.
4.1.
Hít vào: Giống giai
đoạn 1, khi đã tích đầy khí ở đan điền, phải tập trung tư tưởng chia khối khí
đó thành 2 phần bằng nhau, rồi từ từ đẩy xuống hai chân, cảm thấy khí đã ra đều
các ngón chân, thì lại từ từ thu về tích ở đan điền sau đó đẩy tiếp lên ngực
rồi đưa đều ra 2 tay, từ đó thu về đan điền.
4.2.
Thở ra: Thực hiện đúng
như các chu trình trước.
Giai
đoạn này tập mất rất nhiều thời gian nhưng càng tập, càng phát hiện được nhiều
điều kỳ lạ, giống như 1 người đi tìm kho báu, thỉnh thoảng lại bắt gặp 1 hiện
vật cổ quý giá.
4.3. Qua quá trình dài luyện tập, sẽ
thu được các kết quả sau:
- Chân tay rất dẻo, dễ dàng thực
hiện các động tác chính xác;
- Cơ thể có khả năng chịu đau;
- Sức mạnh và đọ dẻo dai tăng tiến;
- Tự mình phát hiện được rất nhiều
huyệt đạo trong người (các điểm khi vận khí thì đau như bị xuyên kim châm, có
mầu đỏ, to bằng đầu đinh ghim nằm chìm sâu trong da. Tất nhiên hiện tượng này
chỉ sảy ra trong một số ngày).
-
Những bài tập đó là tiền đề vật chất để có thể tập tiếp các bài “ nội “khác có
yêu cầu cao hơn, như đã phá các huyệt, các kinh và hiển nhiên sẽ thu được những
kết quả lớn hơn rất nhiều.
*
Một số điều cần lưu ý khi tập:
- Lúc tập phải tuyệt đối thư thái,
tập trung tinh thần;
- Mỗi ngày tập ít nhất một giờ;
- Nơi tập phải yên tĩnh và thoáng gió;
- Sau một quá trình tập, nếu có hiện
tượng như: đau đầu, mỏi tê hai chân, nhức mắt, phân đi hơi lỏng, tức ngực, đau
một số huyệt đạo thì không có gì phải lo lắng, mà phải cố gắng để vượt qua
những vật cản ấy (hiện tượng trên chỉ thỉnh thoảng mới sảy ra và cũng chỉ kéo
dài nhiều nhất là 5-10 ngày).
5.
GIAI ĐOẠN 5:
5.1.
Hít vào: Ngồi đúng như
giai đoạn 1 (ở tập 1), thực hiện chu trình hít vào và cho tụ khí ở đan điền,
cũng giống như chu trình của giai đoan 1. Nhưng khi đã tích đủ khí ở đan điền,
thì không từ từ dồn lên cuống họng rồi cho ra, mà tập trung tinh thần vận khối
khí đó lên ngực và chia đều đẩy ra hai tay, cho thoát ra hai lòng bàn tay.
5.2.
Thở ra: Khi đã tiến
hành xong chu trình vận khí như phần hướng dẫn, lại tiếp tục dồn khí đó lên cổ,
rồi cho ra miệng như quá trình thở ra ở giai đoạn 1.
Sau một quá trính dài tập luyện, khi
nhận được chính xác những hiện tượng cụ thể sau:
- Hai lòng bàn tay nóng.
- Mỗi lần vận khí ra tay, hai cánh
tay bị rung nhẹ, các ngón tay và cả hai bàn tay như bị nẩy bật.
- Huyệt “thiên trì “, huyệt “Lao
cung “, huyệt “trung xung “ rất đau.
- Tập được như vậy, những cảm nhận
có tính linh giác của tay tăng tiến, lực va ép của tay khi đối chiêu nặng lên,
hai tay có khả năng đảo biến linh động như có giác quan thứ sau (hay còn gọi
nôm na là có mắt) . Tất nhiên muốn có kết quả như trên, thời gian tập phải bỏ
ra từ 1-2 năm trở lên.
6.
GIAI ĐOẠN 6:
Đây là giai đoạn nên tập song song
với giai đoạn 5, như vậy thời gian dành cho mỗi buổi tập nên chia đều làm 2:
6.1.
Hít vào: Khi khối khí đã tụ ở “đan điền “,
từ từ chia đều và đẩy ra hai chân, cho thoát ra thật nhanh ở lòng bàn chân.
6.2.
Thở ra: Dồn khí về đan điền và đẩy ra như
các giai đoạn trước.
6.3.
Kết quả: Sau một quá
trình tập 1-2 năm, khi nhận được chính xác những hiện tượng cụ thể như sau:
- Gan bàn chân nóng
- Mỗi lần vận khí ra lòng bàn chân,
hai chân rung nhẹ, các bàn chân và cẳng chân như bị nẩy bật.
- Huyệt “khúc cốt”, huyệt “tam âm
giao “, huyệt “dũng tuyền “ rất đau.
- Tập được như vậy, những cảm nhận
có tính linh giác của chân tăng tiến, lực va khi đối đòn nặng thêm, và khả năng
biến đảo của chân nhiều khi khó hình dung.
Đạt được như vậy, xin chuyển sang
giai đoạn 7.
7.
GIAI ĐOẠN 7:
7.1.
Hít vào: Phương thức tập đúng như giai đoạn
1, chỉ có khác là không đẩy khối khí đó từ từ thoát ra lòng bàn tay, mà phải
tích đầy ở hai lòng bàn tay ở mức tối đa rồi đột ngột đánh mạnh hai tay về phía
trước theo thế “song trực trảo “.
7.2.
Thở ra: Thu hai tay về vị trí ban đầu, thực
hiện các quá trình thở ra giống như giai đoạn 1.
7.3.
Kết quả: Sau một quá
trình dài tập luyện, khi nhận được chính xác những hiện tượng cụ thể như sau:
- Mỗi lần vận khí, hai tay có nguồn
sức mạnh tiềm ẩn chạy cuồn cuộn;
- Lực đánh như được phát ra ngoài
lòng bàn tay;
- Đỉnh thóp đầu nổi gờ;
- Các huyệt “ thiên tỉnh”, “ khúc
trì “, “ thiếu thương “, “ thiếu phủ “, “ tam gian “, “ nhị gian “, “ dịch môn
“ ... được thông thoáng.
- Tập được như vậy thật quan trọng,
vì đây là giai đoạn chuyển tiếp thực sự bước vào nội khí công (phần trung), còn
các giai đoạn trước chỉ là sơ nội, có tính chất tiền đề.
8.
GIAI ĐOẠN 8:
Trong hệ thống các bài tập thuộc
phần này thì đây là giai đoạn khó nhất, tập vất vả và lâu nhất, tất nhiên về
tinh thần rất giống giai đoạn 7.
8.1.
Hít vào: Phương thức
tập đúng như giai đoạn hai, chỉ có khác là không đẩy nhanh khối khí đó thoát ra
hai bàn chân, mà phải tích đầy ở hai lòng bàn chân ở mức tối đa, rồi đột ngột
đạp mạnh hai bàn chân về phía trước theo thế “lôi trực song cước “.
8.2.
Thở ra: Thu hai chân
về vị trí ban đầu, thực hiện các chu trình thở ra giống như giai đoan thứ nhất.
8.3.
Kết quả: Sau một quá
trình tập khi nhận thấy chính xác những hiện tượng cụ thể:
- Khi vận khí, hai chân có nguồn
sinh lực chạy cuồn cuộn.
- Lực đánh của chân như được phát ra
từ ngoài bàn chân.
- Các huyệt : “ lệ đoài “, “ ẩn bạch
“ , “đại đô “, “ khiên âm “, “ chí âm “ như được thông ra ngoài.
9. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI TẬP:
- Nếu chưa tập có đủ các kết quả của
bốn giai đoạn 1,2,3,4 xin các bạn chớ nôn nóng tập phần 5,6,7,8 của bài tập
này. Bởi vừa không có tác dụng, lại vừa có hại.
- Lúc tập phải tuyệt đối thư thái,
tập trung tinh thần.
- Mỗi ngày tập ít nhất 1 giờ
- Nơi tập phải yên tĩnh và thoáng
gió.
- Sau mỗi quá trình tập, nếu có hiện
tượng như: đau ở hai nách, ở bẹn ( tinh hoàn của đàn ông hơi co lại, cửa mình
của đàn bà như thắt lại, các huyệt đạo nêu trên đau như bị kim châm ), như vậy
là rất tốt, xin cố gắng vượt qua (tất nhiên hiện tượng trên sau một chu kỳ 8 ,
9 tháng mới sảy ra, và chỉ kéo dài 1 đến 2 ngày).
CHÚ THÍCH:
1: Huyệt " Thiên trì ", 2:
Huyệt " Lao cung ", 3: Huyệt " Trung xung ", 4: Huyệt
" Khúc cốt ", 5: " Huyệt " Tam âm giao ", 6: Huyệt
"Dũng tuyền ", 7: Huyệt "Thiên tỉnh ", 8: Huyệt " Khúc
trì ", 9: Huyệt " Thiếu thương ", 10: Huyệt " Thiếu phủ
", 11: Huyệt " Tam gian ", 12: Huyệt " Nhị gian ", 13:
Huyệt " Dịch môn ", 14: Huyệt " Lệ đoài ", 15: Huyệt "
Ẩn bạch ", 16: Huyệt " Đại đô ", 17: Huyệt " Khiên âm
", 18: Huyệt " Chí âm ".
10. Mười động tác tập luyện kết hợp với phương
pháp thở thư giãn
10.1. Luyện thở - Khí công
nội công: có một ý nghĩa to lớn đối với việc nuôi dưỡng và nâng
cao sức khoẻ, sức mạnh, sức bền, sự minh mẫn, sảng khoái và thanh thản; hơn nữa
đối với các vận động viên thể thao, các võ sĩ, luyện thở, biết cách thở là một
trong những yếu tố quan trọng đối với việc hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo, phẩm
chất tâm lý (có tính chất xác định thành tích), và ngoài ra luyện thở còn thúc
đẩy việc phát triển các khả năng trong tập luyện, trong giao đấu, trong việc sử
dụng sức mạnh và các nguồn dự trữ của bản thân một cách hợp lý, tối đa và đặc
biệt là khả năng chế ngự sức xúc động từ bên trong – mà nhiều khi lại là yếu tố
duy nhất dễ dẫn đến những thất bại không thể ngờ đến thất đau xót và cay đắng.
Nhưng
tập thở, theo phương pháp khí công, nội công thường rất khó - bởi trái với cách
bình thường và đòi hỏi thời gian.
Ở phần
trên 1, khi giới thiệu DƯỠNG TÂM GIA PHÁP đã có viết: “Việc tập “nội ” không thể
ngay một lúc nhận thấy hết được hiệu quả lớn lao của nó , cũng như mốc kết thúc
thời gian . Người tập một năm có kết quả 1 năm, tập năm 5 , 10 năm có kết qua 5
năm, 10 năm...”
Cũng
không ngoài ngầm ý muốn nhấn mạnh vai trò của thời gian, và chỉ có thời gian.
Ở tập
2, bài giới thiệu 10 động tác tập luyện kết hợp với phương pháp thở thư giãn,
và 4 giai đoạn tiếp theo của phần DƯỠNG TÂM GIA PHÁP - cũng chỉ đòi hỏi sự tập trung, kiên trì và nghị lực tự
mình thắng chính mình.
Sách
Phương pháp dưỡng sinh của bác
sĩ Nguyễn Văn Hưởng có viết:
“ Người xưa nói trong tập luyện phải theo 3 nguyên tắc NỘI
TAM HỢP
1.
TÂM CÙNG Ý HỢP: phải thanh tâm để cho tâm ý chỉ lo hợp với ý để tập trung tập
luyện tập.
2. Ý
CÙNG KHÍ HỢP: tập trung ý để lo điều khiển khí, theo dõi việc thở.
3.
KHÍ CÙNG LỰC HỢP: các sức (lực) của các cơ thể (chủ yếu là cơ hoành) phải dùng
để hít khí vào triệt để thì mới đem lại hiệu quả.
Người
xưa bảo phải “thân tùng ý khẩn “. Theo ý chúng tôi nghĩa là cơ thể phải thư
giãn hoàn toàn, và ý phải tập trung trong việc điều khiển hơi thở, mà khẩn bao
nhiêu thì việc thư giãn càng tốt bấy nhiêu.
Còn
câu: “Động trung cầu tĩnh, tĩnh trung thủ công “ thì phải hiểu sự thống nhất giữa
tĩnh và động của Đông y; trong cái động của việc thở, phải có cái tĩnh của các
bộ phận khác của thần kinh và các cơ khác; câu: “Tinh thần nghi tĩnh, khí huyết
nghi động “ bộ thần kinh thường thường là căng thẳng, vậy phải tập cho tĩnh,
còn khí huyết thường bị ứ trệ, vậy phải tập cho động, cho lưu thông “ ( trích
sách Phương pháp dưỡng sinh, nhà xuất bản y học, Hà nội, 1975, trang 55 )
Sự
trích dẫn tham khảo trên đây một lần nữa cũng không ngoài ngầm ý khuyến nhằm
khích sự tập luyện và niền tin về phương pháp.
Tất
nhiên ở mỗi môn phái: về hình thức về yếu quyết đều có sự khác nhau, nhưng cái
đích cuối cùng vẫn là niềm mong ước giúp cho mỗi người có cơ thể khoẻ mạnh, dẻo
dai, sảng khoái, linh hoạt, yêu đời và nhân hậu.
Sau
đây xin được tuần tự giới thiệu các bài tập.
10.2.BÀI TẬP THƯ GIÃN:
PHẦN
ĐỘNG TÁC
+ Thế
thứ nhất:
Từ
tư thế đứng thẳng hai chân rộng bằng vai, hai bàn tay (tay đao) để chồng lên
nhau ở vị trí dưới rốn (tay trái dưới, tay phải trên), lòng hai bàn tay hướng
lên trời và song song với mặt đất (H.225). Từ từ ngước mặt lên, ngửa nhìn trời
và đồng thời nâng dần hai bàn tay lên cao, thế nâng trùng với hướng trục ngang
của thân, áp xiết má ngoài của hai bàn tay vào nhau ở vị trí trên đỉnh đầu sao
cho lực cơ phải căng và khả năng vươn cao của hai tay phải tối đa (ở mức có thể
vươn đến được). (H.226 )
+ Thế
thứ hai:
Từ
tư thế thứ nhất (H.226) từ từ trở về tư thế khởi phát (H.225).
+ Thế
thứ ba:
Từ (H.225)
từ từ thu hai bàn tay về vị trí cạnh sườn, biến tay đao thành tay trảo, đẩy hai
bàn tay trảo về phía trước, vươn ở mức tối đa sao cho hai cánh tay vừa song
song với nhau, vừa song song với mặt đất, đồng thời hai khuỷ chân củng từ từ trầm
xuống, sao cho má dưới của hai đùi song song với mặt đất. Trục lưng thẳng, hướng
mặt nhìn thẳng (H.227)
+ Thế
thứ tư:
Từ
tư thế (H.227) từ từ trở về tư thế khởi phát (H.225).
+ Thế
thứ năm:
Từ (H.225)
từ từ thu hai bàn tay về vị trí cạnh sườn, biến tay đao thành tay trảo, ngửa
người ra phía sau, uốn ở mức tối đa, đồng thời đẩy hai lòng bàn tay trảo xuống
đất hướng song song với trục thân (cánh tay ở đằng sau, ngón tay quay vào trong
thân, cườm tay quay ra ngoài). Chú ý, khi thực hiện động tác uốn dẻo và ép hai
tay xuống đất hai chân phải căng cứng, khuỷu gối không được gập (H.228).
+ Thế
thứ sau:
Từ
tư thế (H.228) từ từ trở về tư thế khởi phát (H.225).
+ Thế
thứ bảy:
Từ (H.225)
từ từ thu hai bàn tay về vị trí cạnh sườn, biến tay đao thành tay trảo, đảo người
về phía bên trái theo ngược chiều kim đồng hồ một góc khoảng 90°, đồng thời, đẩy
song song hai bàn tay trảo về phía bên trái, dồn tấn vào chân trái, gót chân phải
vặn theo trục thân, toàn thân trầm thấp (H229)
+ Thế
thứ tám:
Từ
tư thế (H.229) từ từ trở về tư thế khởi phát (H.225).
+ Thế
thứ chín:
Từ (H.225)
thực hiện động tác giống như thế thứ bảy ở chiều ngược lại (H.230).
+ Thế
thứ mười:
Từ
tư thế (H.230) từ từ trở về tư thế khởi phát (H.225).
Cứ
như vậy tập đi tập lại nhiều lần. Từ 1 đến 10, rồi trở lại từ 1 đến 10 ... hoặc
có thể tập đi tập lại chỉ một động tác, và sau đó mới thay đổi. Tất nhiên là thời
gian tập nên dành vào buổi sáng vừa ngủ dậy, buổi tối trước khi đi ngủ, hoặc
sau ca làm việc, hoặc sau một buổi tập là tốt nhất.
- PHẦN
HƠI THỞ:
Thở
từ tốn bằng bụng (hít vào qua mũi, thở ra qua miệng bằng cách há to miệng) sao
cho khoảng thời gian lấy hơi và khoảng thời gian đẩy hơi khớp với khoảng thời
gian vận động giữa hai trạng thái (khởi đầu và kết thúc). Khi tiến hành thở, cần
lưu ý: động tác lẻ (thế) hít vào, động tác chẵn thở ra.
Về
hình thức đây chỉ là một phương pháp tập thở thư giãn có kết hợp với phần động
tác. Nhưng đối với người đã tập nội và có ý thức tập nội, thì đây chính là dạng
bài tập cơ sở nhằm chuẩn bị rất tự nhiên các tư thế thuận tiện cho cho việc dẫn
khí, làm thông thoáng và tăng mức độ cảm nhận, tiến đến giai đoạn dùng ý dẫn
khí sau này.
11. Một số kinh nghiệm bản thân:
11.1. Thiền, khí tạo ra sức khỏe dẻo dai, tinh
thần sung mãn, ý chí mãnh liệt, trí huệ mở mang:
Việc tập Khí, Thiền không hề
đơn giản và đòi hỏi sự chăm chỉ, dày công tập luyện mới mong có kết quả thực
sự. Có một số kỷ niệm sâu sắc về việc học, luyện tập và ứng dụng vào thực tế về
Khí, Thiền đã trải qua để chia sẻ kinh nghiệm cùng mọi người.
Việc học Thiền, Khí không
phức tạp mà ngược lại rất đơn giản đơn giản tới mức thô kệch, cộc lốc. Bài tập
Khí còn phức tạp vì phải dùng Ý dẫn Khí vận chuyển theo Nhâm Đốc, kinh mạch,
còn bài tập Thiền chỉ là nghĩ về Không hoặc Vô, hay tập trung vào một điểm hoặc
một vấn đề. Tuy nhiên, để thấu hiểu được các vấn đề về Khí hay Thiền thì là cả
một vấn đề Triết học đồ sộ và lớn hơn là phải Giác Ngộ, Đắc Đạo trên cơ sở có
một cuộc sống hết sức chuẩn mực, đúng đắn và hiểu biết sâu rộng. Trên cơ sở đó sau
khi đã tự tập Khí theo 8 giai đoạn của Nhất Nam Căn bản tập 1, 2 mà không dựa
trên bất kỳ sự hướng dẫn trực tiếp nào từ người Thầy, hoặc giả chỉ là hỏi ý
kiến tham khảo. Tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự hướng dẫn trong giáo trình vì
tôi hiểu đó là sự chắt lọc qua ngàn đời của người Việt được Sư phụ Ngô Xuân Bính
chuyển tải vào. Kết quả tập luyện sau năm tháng được so với sách để tiếp bước
sau. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn nhiều đặc biệt là các các giai đoạn 3,4. Ở
giai đoạn 3 khi tập muốn thở ra thì quyền cước đi vù vù rất nhanh, mạnh mới bật
lưỡi thở được, thật kinh dị những pha nhào lộn ở sân gạch ngoài đình lúc tập
khí. Còn ở giai đoạn 4 thì cơ thể đã yên tĩnh và ngồi Kết già như Phật, lúc đó
quãng năm 1995. Để yên tâm thì vào chùa Kim Liên học xem Phật Tổ ngồi thế nào,
thật kinh ngạc, mình ngồi đúng như vậy, có một số vị Phật thì đặt chân tay
ngược lại. Qua đó thấy rằng kết quả là một nếu tập đúng. Sau đó Sư phụ đi Nga
và hết tập 1,2 Nhất Nam là hết các giai đoạn tập Khí. Sau 10 năm tập xong Khí
Nhất Nam tình cờ nghiên cứu Thiền Luận của SUZUKI năm 2000 trên Phả Lại – Côn
Sơn – Chí Linh – Hải Dương thì phát hiện ra kết quả tập theo công án Không, Vô
cũng khác gì với Khí Nhất Nam. Tiếp tục nghiên cứu Kinh Lăng Già Tâm Ấn của Đạt
Ma Sư Tổ, rồi kinh Bát Nhã Ba La mật để làm sáng tỏ Thiền, tăng kết quả tu
luyện. Ngấm các vấn đề về Thiền trong cả nhận thức lẫn tập luyện thì lại phát
hiện ra Thiền Uyển Tập Anh thời Lý do Thiền sư Lê Mạnh Thát dịch và chú giải
thì càng hiểu rõ hơn về chiều sâu Thiền của Người Việt. Các thời Trần, Lê,
Nguyễn cũng nghiên cứu nhưng Thiền thời Trần thì không còn là lý thuyết trong
môi trường cao cấp xã hội mà đi sâu vào cuộc sống dân dã rồi. Tới nay có Kim
Thân Cha của Việt nam còn sâu rộng hơn cả xưa nữa. Nay đã không nghiên cứu thêm
về Thiền mà chỉ yên tâm thực hành và phát triển cho mọi người và xung quanh.
Kết quả của Khí, Thiền với
cuộc sống cực kỳ to lớn và toàn diện từ phát triển tư duy, sức khỏe, đón sự may
mắn, tránh dữ, ý chí, mạnh mẽ, trí huệ,… Khi xưa bận học một lúc hai trường Đại
học Xây dựng, Ngoại ngữ lại làm khu nghỉ dưỡng 5 sao The Lien –
Intercontinental, giúp người yêu là vợ bây giờ bị ốm nặng, đọc sách báo, tập
tành, hướng dẫn mà vẫn vượt qua như thường. Nhiều lúc căng thẳng do sức ép công
việc, học hành, cuộc sống mà không thể ngủ được, nhưng do đêm ngồi dạy luyện
Khí Nhất Nam thì tất cả mọi thứ lại như thường, ngủ ngon và sâu. Có đợt bị đánh
bể đầu năm 1993 mà chẳng đi viện khám, chỉ luyện Khí Nhất Nam mà qua khỏi, nay
sẹo lớn vẫn còn. Các việc như đoán định trước, đón lành tránh dữ, gặp may mắn
thì thường xuyên do được Khí Thiền hỗ trợ. Đặc biệt là có những lần tập đau
lưng ghê gớm do tập quá, sau đó lại tập tiếp để xương sống vào vị trí nhưng lại
tập không chuẩn vào lệch làm lưng đau ghê gớm. Định thần lại và luyện Thiền để
kéo cơ lưng đưa xương sống về đúng vị trí ở tư thế nằm thì thấy người trước hết
trở về nằm thẳng chuẩn, sau đó lưng co, các cơ tay chân duỗi từ từ căng, mạnh
và chỉ mấy phút sau trục lưng đã nằm đúng vị trí. Nếu so lực kéo cơ lưng, căng
cơ tay chân của tự bản thân thì thấy chẳng kém các bài quyền cực nặng, nhưng tư
thế kéo cân đối, từ từ không như đi quyền cước và khỏi ngay hẳn. Phải nói rằng
tư duy của Khí Thiền là trí huệ vì nó quản lý được vũ trụ, sinh ra vũ trụ thì
cớ gì bản thân ta là một thành phần của vũ trũ Khí Thiền đó nó lại không xử lý
được.
11.2.Bị ốm và tự chữa
khỏi do chủ trì di dời mộ cổ đã có từ 500 năm ở Hà Đông – Hà Nội
Tết âm lịch năm 2011 bị ốm
một trận kịch liệt, cơ thể sốt từ từ và tới tận gần 40oC mặc dù bệnh viện Hồng
Ngọc khám không phát hiện ra bệnh gì. Ốm bắt đàu từ 5 tết tới tận 14 tết, 10
ngày liên tục. Các cơn sốt cao kèm lạnh từ trong cơ thể phải đắp chăn và bật
điều hòa hoặc quạt sưởi liên tục. Mấy ngày đầu tưởng nhẹ nên khi thấy đỡ lại
coi thường để cơ thể gió máy nên sau càng ngày càng nặng. Uống hạ sốt mà không
đỡ, truyền nhiệt độ càng cao. Nhiều lúc hoang mang hoảng sợ vì chảy cả máu cam
2 mũi, có lẽ do điều hòa khô quá.
Tối ngày thứ 8, 9 thì tự
nhiên thò tay, chân ra khỏi chăn mấy lớp thấy khí lực chạy qua lại cơ thể qua
Lao Cung và Dũng Tuyền ù ù đến phát sợ rồi sáng thì khỏi hẳn, thật kỳ lạ. Bao
năm tập luyện mà chưa thấy trạng thái này bao giờ, cơ thể mặc đồ lót giữa trời
giá lạnh mà không thấy lạnh. Tuy nhiên, khi đi tất dầy hay cho chân vào chăn
thì không thấy luồng khí chuyển động nữa.
11.3.
Giấc ngủ trưa đắc Khí: Khi ngủ đủ sẽ thấy khí ấm và sung
sướng, yên tâm tràn chảy ở mặt, đầu (ẤN ĐƯỜNG), bụng dưới (KHÍ HẢI), gan bàn
chân (DŨNG TUYỀN) đồng thời một lúc. Cơ thể như bốc khói và mãn nguyện mà chẳng
chú tâm tới nó tí nào. Lúc chú tâm tới nó thì nó chảy càng mạnh mẽ. Có thể dừng
ngay sau một ý nghĩ.
11.4.
Những điều cần chú ý khi tập Dưỡng khí công Nhất Nam (phải tập cũng phần ngoại)
-
Sáng sớm ngủ dạy, tối trước khi đi ngủ tập “dưỡng tâm gia pháp”, “khí nội dịch”,
ngoài ra lúc rảnh rỗi ban ngày có thời gian tập cũng rất tốt.
-
Chiều tối tập Võ (ngoại) vì cơ thể lúc đó phù hợp sức khỏe nhất cho việc này.
-
Không thể tách rời nội, ngoại mà phải tập song hành, sẽ vừa có tinh thần trí tuệ
thoải mái, minh mẫn, vừa có thể lực, sức khỏe dồi dào, cơ thể cường tráng, dẻo
dai, mạnh mẽ.
11.5. Lấy sinh hoạt điều độ làm nền tảng
căn bản
“Bế
tinh, dưỡng khí, tồn thần,
Thanh
tâm, quả dục, tu thân, luyện hình”
Danh
Y Tuệ Tĩnh
- Đó
chính là ăn ngủ điều độ, làm việc có tiết chế, lao động trí óc kết hợp với lao
động chân tay.
- Ngủ
đủ 8h một ngày, trưa nên có 10 – 15 phút nghỉ ngơi thư giãn.
-
Người xưa tập Khí, luyện Thiền theo giờ giấc tự nhiên của động vật theo tiếng
gà gáy. Họ đi ngủ từ lúc gà lên chuồng (tầm 18h chiều tối) và dạy lúc gà gáy
canh 5 sáng (tầm 4h sáng hôm sau) như vậy là đã tròn giấc ngủ nghỉ 10 tiếng, rất
đảm bảo sức khỏe con người. Những người tập khí, luyện Thiền có thể đêm họ dạy
tập vào giờ Tý, từ 23h – 1h sáng (2 tiếng), trừ đi thì vẫn cứ ngủ đủ 8 tiếng, nếu
có dạy sớm tập lúc 4h sáng tiếp theo cũng không ảnh hưởng tới sức khỏe.
- Trong
xã hội hiện đại ngày nay con người có nhiều công việc, thú vui giải trí, nên họ
thường đi ngủ muộn, dạy muộn, có những người chỉ được ngủ 6-7h một ngày (thiếu
ngủ). Vì vậy, áp dụng dạy nửa đêm và dạy sớm tập là phản khoa học, ảnh hưởng tới
sức khỏe bản thân, dễ bị ốm, mệt, sinh bệnh tật vì thiếu ngủ hoặc ngủ không
ngon giấc. Do đó, cách sắp xếp tập Khí trước khi đi ngủ và sau khi dạy 30’ –
60’ là hợp lý nhất, phù hợp với điều kiện hiện tại mà vẫn giữ được giấc ngủ 8
tiếng.
11.6. Nếu gặp tà ma, ớn lạnh khi ngủ thì
chủ động vận khí theo giai đoạn nào thạo nhất thì mọi thứ đó đều biến mất sau
vài phút. Quá trình này hay xảy ra sau khi tập, trong giấc ngủ, do vậy việc tập
phải nghiêm túc thì trong lúc ngủ mới có thể sử dụng tập lại được thành thạo để
đuổi ma quỉ.
11.7.
Phải tập tành đều đặn, chăm chỉ hàng ngày dù ít nhiều không thể bỏ
trong nhiều tháng, nhiều năm liên tục, để đảm bảo lượng đổi, chất đổi. Không
thể mong sớm chiều, tuần tháng có thể có kết quả, mà cứ phải chăm chỉ, đều đặn,
liên tục rồi có ngày kết quả sẽ đến. Trừ khi rượu bia quá chén thì tránh tập
Khí (nội) mà chỉ tập ngoại để thải chất độc ra ngoài qua mồ hôi và hơi thở.
11.8. Kết quả của các giai đoạn luyện tập:
-
Giai đoạn 1: Như sách
-
Giai đoạn 2: Như sách
-
Giai đoạn 3:
+ Như
sách.
+
Tuy nhiên, khi thở ra để lưỡi bật được ra khỏi hàm trên cơ thể phải đi một số động
tác quyền hoặc cả một bài quyền tự nhiên rất mãnh liệt.
-
Giai đoạn 4:
+
Như sách.
+
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
+ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập.
-
Giai đoạn 5:
+
Như sách.
+
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
+ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập.
-
Giai đoạn 6:
+
Như sách.
+
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
+ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập.
-
Giai đoạn 7:
+
Như sách.
+
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
+ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập.
-
Giai đoạn 8:
+
Như sách.
+
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
+ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập.
-
Sau 8 giai đoạn hết 10 năm, chuyển sang tập Thiền. Trong 10 năm tập khí ngoài
những kết quả đạt được như trên còn có rất nhiều sự hộ trì, giúp đỡ khác từ Khí
NN mang lại:
+
Công việc lớn nhỏ đều suôn sẻ.
+
Cây cỏ, hoa lá, chim muông, động vật nuôi đều béo tốt, khỏe mạnh, mau lớn, khôn
ngoan.
+
Kinh tế gia đình, bản thân phát triển.
-
Giai đoạn Thiền: Theo Công án: Không, Vô, Kệ: Thiền Luận Suzuki:
+
Phương pháp: Tập trung vào 1 vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
-
Giai đoạn Thiền: Theo Kinh Lăng Già Tâm ấn: Đạt Ma Sư Tổ và nghiên cứu Kinh
Kinh Lăng Già Tâm ấn Suzuki:
+
Phương pháp: Tập trung vào 1 vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
-
Giai đoạn Thiền: Theo Kinh Bát Nhã Ba la mật đa:
+
Phương pháp:
\ Tập
trung vào 1 vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
\ Sống
theo 6 Bát Nhã Ba la mật
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
-
Giai đoạn Thiền: Theo Thiền Uyển Tập Anh:
+
Phương pháp:
\ Tập
trung vào 1 vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
\ Sống
theo 6 Bát Nhã Ba la mật
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
\ Hiểu
được người Việt tập Thiền đắc Đạo rất nhiều từ xa xưa.
- Giai
đoạn Thiền: Theo Kim Thân Cha:
+
Phương pháp:
\ Tập
trung vào 1 vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
\ Sống
theo 6 Bát Nhã Ba la mật
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
\ Hiểu
được người Việt tập Thiền đắc Đạo rất nhiều từ xa xưa.
\ Hiểu
được Trời còn có trước Phật – Người nhận thức ra Trời là gì (Vật chất quyết định
ý thức)
-
Giai đoạn Thiền: Theo nhận thức của bản thân: Thần hoàn hư.
+
Phương pháp:
\ Tập
trung vào một vấn đề để tư tưởng: Không nổi lên.
\ Sống
theo 6 Bát Nhã Ba la mật
+ Kết
quả:
\
Chân tay tự xếp như ngồi thế kết già của Phật Giác Ngộ.
\ Cơ
thể tự chuyển động khi muốn đi các bài quyền, lúc nhanh, lúc chậm, lúc mạnh,
lúc nhẹ rất tự nhiên, không theo bất kỳ bài quyền nào đã tập
\
Khi tập lại theo các giai đoạn nào của Khí Nhất Nam cũng có kết quả như trên.
\ Hiểu
được người Việt tập Thiền đắc Đạo rất nhiều từ xa xưa.
\ Hiểu
được Trời còn có trước Phật – Người nhận thức ra Trời là gì (Vật chất quyết định
ý thức)
\ Hiểu
được Thiền chính là giai đoạn cao nhất của Khí công.
11.9. Một số va chạm với tâm linh khi tập:
- Việc xuất hồn là bình thường đối với bất cứ
người nào đã tập về tâm linh. Vì lúc đó có cơ thể mở để giao thoa giữa bản thể
và tự nhiên vũ trụ. Trải nghiệm chính là sự kinh qua của bản thân và sẽ nghiệm
thấy cái gì. Do vậy, chịu khó tu tập, trao đổi về kết quả và định hướng rồi
tiếp tục chăm chỉ rèn luyện không ngừng để tiến hóa.
- Trong khối tâm linh có vô cùng nhiều lớp, khả năng tới đâu thì sẽ tới được đó. Đỉnh cao là xuyên qua được tất cả các lớp để biết được tận cùng của vũ trụ. Điều này đòi hỏi tâm không động hay tâm không mới đủ năng lực xuyên được hết các lớp.
- Hiện tượng xuất hồn nhìn thấy xác của bản thân mình là do khi tập luyện sóng tâm linh kết tụ xung quanh cơ thể rất cao, người xưa gọi là hào quang. Đặc trưng của sóng này như sóng điện từ nhưng đặc biệt hơn là nó có khả năng tư duy như con người nhưng ở tầm kết nối toàn vũ trụ (tư duy vũ trụ). Phật giáo gọi nó là Trí Huệ (con mắt thứ ba). Vì vậy, việc nhìn thấy xác khi thiền định, xuất hồn là bình thường, chứ chưa có gì đặc biệt cả.
- Như trên đã nói, thực ra trong ngoài, trên dưới là một thể thống nhất, nhưng được phân chia ra thành nhiều lớp để tiện cho việc quản lý và tiến hóa mà thôi. Khi tập không nên để ý tới những thứ đó sẽ làm cản trở tâm, làm gánh nặng cho tâm, ngăn cản sóng tâm linh trao đổi qua lại. Bởi vì, khi động tâm, có nghĩa là quan sát kể cả trong mơ, lúc tập thì hệ thần kinh phải đồng thời làm cả hai việc là tiếp nhận sóng tâm linh vũ trụ và suy nghĩ của chính bản thân về bất cứ vấn đề gì. Lúc này trên một đường dây thần kinh phải chịu tải cả trong ngoài rất dễ cháy, đứt (xưa gọi là tẩu hỏa nhập ma). Vì vậy, khi tập nên giữ tâm tuyệt đối trống không, không để ý bất cứ thứ gì trông thấy, kể cả Phật, Thánh, Ma, Qủy, núi đồi, v.v... Để tâm yên tĩnh tiếp nhận tâm linh vũ trụ qua lại tất cả các tế bào trong cơ thể.
- Trạng thái trong mơ sau khi tập: cảm giác sung sướng khi bay và tiếng rít gió nếu bay nhanh, mọi trạng thái diễn ra ngay sau khi tập, lúc ngủ. Cơ thể chủ động bay lên xuống. Tuy nhiên, một lúc là hết năng lượng không thể bay được. Có những lúc mê ngủ bị rơi từ đỉnh núi xuống nên hoảng hốt và sợ liền dùng thủ pháp bay lên lại giải thoát được và hết sợ. Có thể bay theo các chiều nếu muốn và nhanh chậm cũng theo ý chứ không niệm gì. Khi bay lên cao và xa quá ra khỏi trái đất thì hơi sợ và chỉ e không về được bản thể nên lại phải quay về ngay chứ chưa dám đi xa. Lúc ra khỏi trái đất hay bay trong trái đất thì không có ai bám theo. Lúc đầu bay chạm vật gì thì có cảm giác hơi đau và bị cản lại phải vòng, sau thì xuyên qua nhưng cũng thấy hơi nhột nhột.
- Khi tiếp xúc với người trong mộng thì như bình thường, nhưng không thể nói chuyện được với họ. Lúc đầu thì cũng hơi lợi dụng họ vì tưởng họ không thấy mình. Nhưng sau họ biết, họ hoặc những người trong thế giới đó tóm mình lại, nên từ đó mình không làm gì cả và họ cũng chẳng làm gì mình.
- Khi gặp ma quỉ luôn tự xử lý được bằng cách vận khí khi mình tập cách đây nhiều năm, còn hiện tại nếu "ma, quỉ" nhập thì mình để nguyên cho vào hoặc đi vào trạng thái thiền là họ tự bật ra. Trường hợp dương khí "tiên, phật" nhập thì đây là trạng thái đạt được thường xuyên lúc tu tập và bất kỳ lúc nào chỉ bằng một ý nghĩ. Đây là lực lượng hỗ trợ mình trong rất nhiều trường hợp khó khăn của cuộc sống, cũng như tăng trưởng nhận thức của bản thân.
- Chúng ta, những con người chịu khó tu tập, trước hết là mở rộng nhận thức bản thân, vũ trụ, sau đó là nắm được thiên cơ giúp đỡ sự tiến hóa của muôn loài. Cuộc sống đó mới thật có ý nghĩa biết bao.
- Trong khối tâm linh có vô cùng nhiều lớp, khả năng tới đâu thì sẽ tới được đó. Đỉnh cao là xuyên qua được tất cả các lớp để biết được tận cùng của vũ trụ. Điều này đòi hỏi tâm không động hay tâm không mới đủ năng lực xuyên được hết các lớp.
- Hiện tượng xuất hồn nhìn thấy xác của bản thân mình là do khi tập luyện sóng tâm linh kết tụ xung quanh cơ thể rất cao, người xưa gọi là hào quang. Đặc trưng của sóng này như sóng điện từ nhưng đặc biệt hơn là nó có khả năng tư duy như con người nhưng ở tầm kết nối toàn vũ trụ (tư duy vũ trụ). Phật giáo gọi nó là Trí Huệ (con mắt thứ ba). Vì vậy, việc nhìn thấy xác khi thiền định, xuất hồn là bình thường, chứ chưa có gì đặc biệt cả.
- Như trên đã nói, thực ra trong ngoài, trên dưới là một thể thống nhất, nhưng được phân chia ra thành nhiều lớp để tiện cho việc quản lý và tiến hóa mà thôi. Khi tập không nên để ý tới những thứ đó sẽ làm cản trở tâm, làm gánh nặng cho tâm, ngăn cản sóng tâm linh trao đổi qua lại. Bởi vì, khi động tâm, có nghĩa là quan sát kể cả trong mơ, lúc tập thì hệ thần kinh phải đồng thời làm cả hai việc là tiếp nhận sóng tâm linh vũ trụ và suy nghĩ của chính bản thân về bất cứ vấn đề gì. Lúc này trên một đường dây thần kinh phải chịu tải cả trong ngoài rất dễ cháy, đứt (xưa gọi là tẩu hỏa nhập ma). Vì vậy, khi tập nên giữ tâm tuyệt đối trống không, không để ý bất cứ thứ gì trông thấy, kể cả Phật, Thánh, Ma, Qủy, núi đồi, v.v... Để tâm yên tĩnh tiếp nhận tâm linh vũ trụ qua lại tất cả các tế bào trong cơ thể.
- Trạng thái trong mơ sau khi tập: cảm giác sung sướng khi bay và tiếng rít gió nếu bay nhanh, mọi trạng thái diễn ra ngay sau khi tập, lúc ngủ. Cơ thể chủ động bay lên xuống. Tuy nhiên, một lúc là hết năng lượng không thể bay được. Có những lúc mê ngủ bị rơi từ đỉnh núi xuống nên hoảng hốt và sợ liền dùng thủ pháp bay lên lại giải thoát được và hết sợ. Có thể bay theo các chiều nếu muốn và nhanh chậm cũng theo ý chứ không niệm gì. Khi bay lên cao và xa quá ra khỏi trái đất thì hơi sợ và chỉ e không về được bản thể nên lại phải quay về ngay chứ chưa dám đi xa. Lúc ra khỏi trái đất hay bay trong trái đất thì không có ai bám theo. Lúc đầu bay chạm vật gì thì có cảm giác hơi đau và bị cản lại phải vòng, sau thì xuyên qua nhưng cũng thấy hơi nhột nhột.
- Khi tiếp xúc với người trong mộng thì như bình thường, nhưng không thể nói chuyện được với họ. Lúc đầu thì cũng hơi lợi dụng họ vì tưởng họ không thấy mình. Nhưng sau họ biết, họ hoặc những người trong thế giới đó tóm mình lại, nên từ đó mình không làm gì cả và họ cũng chẳng làm gì mình.
- Khi gặp ma quỉ luôn tự xử lý được bằng cách vận khí khi mình tập cách đây nhiều năm, còn hiện tại nếu "ma, quỉ" nhập thì mình để nguyên cho vào hoặc đi vào trạng thái thiền là họ tự bật ra. Trường hợp dương khí "tiên, phật" nhập thì đây là trạng thái đạt được thường xuyên lúc tu tập và bất kỳ lúc nào chỉ bằng một ý nghĩ. Đây là lực lượng hỗ trợ mình trong rất nhiều trường hợp khó khăn của cuộc sống, cũng như tăng trưởng nhận thức của bản thân.
- Chúng ta, những con người chịu khó tu tập, trước hết là mở rộng nhận thức bản thân, vũ trụ, sau đó là nắm được thiên cơ giúp đỡ sự tiến hóa của muôn loài. Cuộc sống đó mới thật có ý nghĩa biết bao.
- "Bức tranh này có hồn; Trông rất có hồn; Trông
như mất hồn; Gọi hồn; Hết hồn; Tâm hồn; Xuất hồn,..." Đó là những câu từ
trong dân gian thường nói về một trạng thái tâm linh của con người, hoặc sản
phẩm của con người mang yếu tố tâm linh. Thường nghe hồn nhập vào cơ thể lúc
lọt lòng mẹ và xuất ra lúc sắp lìa đời. Vậy, hồn có tác dụng gì trong bản thể
mỗi con người?
Đó là sự liên kết tâm linh
giữa vũ trụ và con người ( giữa đại vũ trụ và tiểu vũ trụ).
Đó là sự điều phối các cơ
quan quan đoàn thể trong cơ thể cùng với não bộ (tinh thần).
Tâm hồn vui vẻ thì tinh thần
sảng khoái. Muốn vậy con người ta phải đảm bảo nhiều yếu tố: Điều độ, Chịu khó
rèn luyện; Công việc ổn định, Thu nhập thỏa mãn; Gia đình hòa thuận, Đất nước
yên bình, ...
Lời kết
Vũ trụ bao la, con người nhỏ bé, mỗi tác
động của vũ trụ đều ảnh hưởng lớn tới loài người và muôn loài trên trái đất nhỏ
bé. Ngược lại những hoạt động của loài người chẳng có bất cứ ý nghĩa gì với vũ
trụ trừ nhận thức được đôi chút về nó và khai thác kiệt quệ trái đất, nơi sinh
ra và chăm bẵm loài người. Con người ta ai ai cũng giống nhau về hình thức con
người, sản phẩm của vũ trụ, có khác là địa vị, tiền của, hay có đôi chút nhận
thức hơn người khác về một số vấn đề, chứ kỳ thực đã làm sao tự biết được hết
bản thân chứ nói gì sáng tạo ra được bản thân? Chính vì vậy nên hãy suy nghĩ,
hành động thật thoải mái, bao dung, đừng quá tự ty, tự mãn. Hãy tận hưởng tất
cả những gì mà tạo hóa ban cho trong cuộc đời vô cùng ngắn ngủi của mình, bởi
vì bản thân mình chính là tinh hoa của vũ trụ. Trong sự cố gắng từng giờ phút
cho cuộc sống mến yêu, cho sự cạnh tranh sinh tồn để vươn lên bằng bè bạn thì
hãy đừng quên rằng họ - những người được coi là thành đạt, được coi là giàu
sang cao quí cũng chỉ như mình, một con người sinh ra trong vũ trụ mênh mông và
sẽ trở về với vũ trụ chẳng khác gì mình. Sự hơn thua, được mất trong cuộc đời,
sự đấu tranh thắng bại cũng chẳng bằng cái nháy mắt của vũ trụ. Vì vậy, tận
hưởng hạnh phúc mà vũ trụ đã ban tặng là cuộc sống và cùng nhận thức vũ trụ,
hòa vào nó, vận hành cùng nó thì mới có thể gọi là đẳng cấp vũ trụ trong con
người. Trong đó có phương pháp luyện tập Khí công Nhất Nam theo các đường kinh
lạc làm khai thông hệ thống “hạ tầng” chính yếu của cơ thể là kinh lạc, huyệt
vị bằng cách dùng ý dẫn khí (như công án của Thiền là tập trung vào một vấn đề)
để rồi hấp thụ được các luồng sóng tâm linh bất tận xung quanh ta, choán ngợp
vũ trụ, khi tư tưởng lắng xuống không còn chút tơ tưởng nào. Để rồi sau đó “các
mảnh đất phì nhiêu” bên cạnh “hệ thống hạ tầng đã khai thông” ta sẽ kiểm nghiệm
lại bằng Thiền để thấy kết quả tương đương và cũng là để từng tế bào trong cơ
thể có thể hấp thụ được dòng sóng tâm linh bất tận đó, rồi thấy rằng cái trí
tuệ, sức mạnh đã có sẵn trong đó ta thoải mái mà khai thác tận hưởng miễn phí.
Vũ trụ đúng là:
“Làm
việc ngàn đời không biết mệt,
Công
không được hưởng vẫn cứ vui”
Dòng sóng tâm linh bất tận
đó là trí tuệ thực sự, sức mạnh thống nhất, cung cấp cho mỗi tế bào trong cơ
thể khi biết cách tiếp nhận bằng việc không tơ tưởng gì, cung cấp cho thế giới
và toàn bộ vũ trụ hoạt động từng giây phút và cả mười mấy tỉ năm tiến hóa của
nó, chứ không như trí tuệ ảo của tin học IT không có tình cảm và tư duy phải
tốn tiền của để mua sắm, đào tạo, vận hành và có thời hạn ngắn ngủi, không đồng
bộ. Đó cũng là cách giáo dục, đào tạo ngắn nhất, tiết kiệm nhất cho mỗi con
người chúng ta, khi mà chi phí đào tạo ngày càng đắt đỏ và chỉ dành cho một số
ít các cá nhân xuất sắc mới vào được các trường đỉnh Harvard hay Quốc Tử Giám
xưa kia. Mà:
“Vì
hạnh phúc mười năm phải trồng cây,
Vì
hạnh phúc trăm năm phải trồng người”
Mạnh
Tử
Để thấy giáo dục là tốn kém,
lâu dài nhất trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của mỗi quốc gia, dân tộc. Như
lục tổ Huệ Năng không biết chữ, ở vùng quê nhưng biết rằng Nam Bắc Đông Tây có
khác nhau nhưng Tâm Phật là một, ai ai cũng có thể rèn luyện để Giác Ngộ thành
Phật ngay trong cuộc đời của mình. Lịch sử Việt Nam càng thấy rõ nét về sức
mạnh trí tuệ siêu phàm khi chiến đấu và chiến thắng khi bắt buộc phải chống lại
các kẻ thù lớn mạnh nhất thế giới trong suốt chiều dài lịch sử, nhờ vào việc
rèn luyện trí huệ của Thiền và Võ công trong đó có Nhất Nam là môn cổ xưa nhất.
Trong những lúc gian nguy đó, trong suốt chiều dài lịch sử khó khăn đó làm gì
có phổ cập giáo dục toàn dân, làm gì có nền học thuật tự xây dựng phát minh ra
được, mà hầu hết là cập nhật từ bên ngoài như Trung hoa, Pháp, Nga, Mỹ, Nhật.
Do đó, trong mỗi bản thân con người đã phải tự thấm đẫm, phải tự rèn luyện sáu
cái cốt lõi của Bát Nhã Ba La Mật, cùng với những thế võ hiểm hóc, mạnh mẽ, táo
bạo, quyết liệt như võ cổ truyền Nhất Nam để tồn tại cho mình và cho Xã Tắc.
Đất nước ta vẫn còn nghèo, thế giới vẫn còn nhiều người chưa được sung sướng vì
nhiều nguyên nhân, nhưng đã được sinh ra làm người thì cũng đã là cỗ máy hoàn
hảo nhất vũ trụ, nên đều có thể tự rèn luyện để hấp thụ được trí huệ bất tận
của vũ trụ cho bản thân rồi song hành rèn luyện Nhất Nam để tăng cường sức
khỏe, có khả năng tự vệ, rèn tính kỷ luật, tính tổ chức, đầu óc minh mẫn, sáng
suốt để rồi cải tạo cuộc sống cho bản thân cho gia đình và cho xã hội, thế giới
này. Tránh như đất Phật mà nhiều phen chịu cam go từ các kẻ thù bên ngoài. Mà
khi đã Giác Ngộ lại có thêm Nhất Nam căn bản trong mình thì hạnh phúc sẽ đến,
kinh tế sẽ có, con người sẽ hòa vào xã hội ở mức cao nhất, cũng là hòa vào Vũ
Trụ mênh mông với tâm hồn thanh thản, thoải mái.
Được
sinh ra ở trên đời,
Cảm
ơn Cha, Mẹ, ơn Trời mênh mông,
Nguyện
xin hai chữ Cảm Thông,
Làm
cho tất cả trông hồng Ban Mai.
CÁC ỨNG DỤNG VÀO CUỘC SỐNG
1. Phục
vụ nâng cao sức khỏe: Tạo sự thoải mái, dễ chịu, tránh mệt mỏi, nhức đầu, mất
ngủ. Nếu tập chăm chỉ và lâu dài thì cơ thể khỏe mạnh, dẻo dai, bền bỉ, cường
tráng, thông minh.
2. Hình
thức tập luyện đơn giản, ít tốn kém kinh phí đầu tư, diện tích tập luyện: Có thể
tập luyện ở mọi nơi, mọi lúc, mọi điều kiện, với mọi điều kiện tình trạng sức
khỏe: khỏe, yếu, ốm của cơ thể.
3. Tăng
cường trí tuệ: Bằng việc tăng nhận thức về bản thân và vũ trụ do khả năng hấp
thụ vật chất thông minh trong toàn bộ cơ thể thay vì chỉ riêng có tư duy bởi
não bộ (não chiếm 1/100 trọng lượng cơ thể, nên khi hấp thụ đầy đủ vật chất
thông minh thì khả năng tư duy sẽ tăng 100 lần).
4. An
toàn vệ sinh thực phẩm: Vì hấp thụ trực tiếp sóng vũ trụ vào từng tế bào mà
không phải thông qua ăn uống cùng hệ tiêu hóa, do vậy không tạo ra chất thải và
các phản ứng phụ.
5. Kinh
tế: Giảm thiểu chi tiêu ở mức thấp nhất về ăn uống, giáo dục, y tế, sức khỏe vì
cơ thể lĩnh hội trực tiếp từ thiên nhiên cả bốn vấn đề này trong cùng một thời
gian.
6. Ổn định
chính trị, an ninh, trật tự xã hội: Vì con người thuần khiết, tâm lý thoải mái,
yêu thương, chan hòa, tình cảm, ý chí, sức khỏe, mạnh mẽ, có nhận thức đúng, đầy
đủ, vì biết được nguồn gốc của bản thân đều phát sinh phát triển và kết thúc ở
cùng một nơi.
7. Môi
trường: Gần gũi và xây dựng, bảo vệ được moi trường tự nhiên do không phải khai
thác và sử dụng nhiều ở đó.
HỆ
THỐNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tên tài liệu
|
Số trang
|
Nhà xuất bản
|
Năm
xuất bản
|
|
Nhất Nam căn bản toàn tập – Giáo sư Viện sỹ
Bác sỹ Võ sư Ngô Xuân Bính
|
||||
Thiền
Luận – D.T.Suzuki
|
||||
Kinh
Ma ha bát nhã ba la mật – Dịch giả H.T Thích Trí Tịnh
|
||||
Khí
công học và y học hiện đại – GS Ths Ngô Gia Huy, Bùi Lưu Yên, Ngô Gia lương
|
||||
Chỉ
Quán tọa Thiền- Đại sư Trí Khải – Dịch giả Thích Nhật Chiếu
|
||||
Lịch
sử triết học phương Đông – Nguyễn Đăng Thục
|
||||
Khí
– Triết học phương Đông – Trương Lập Văn (dịch giả Hoàng Mộng Khánh)
|
||||
Thiền
Uyển Tập Anh – Lê Mạnh Thát
|
||||
Các
bậc chân sư YOGA Ấn độ (Xứ Phật huyền bí) - Autobiographie D’un Yogi – Dịch
giả Nguyễn Hữu Kiệt
|
||||
Lão
Tử - Đạo Đức Kinh
|
||||
Kinh
dịch – Dịch giả Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê, Lê Văn Quán
|
||||
Kinh
Lăng Gìa Tâm Ấn – Tổ Bồ Đề Đạt Ma – Dịch giả Thích Thanh Từ
|
||||
Nghiên
cứu kinh Lăng Già – D.T.Suzuki – Dịch giả Thích Chân Thiện, Trần Tuấn Mẫn
|
||||
Thái
Cực Quyền toàn tập – Các họ Trần, Ngô, Dương,
|
||||
Dưỡng
Khí Công – Mã Lễ Đường
|
||||
Phật
Hoàng Trần Nhân Tông, Trần Thái Tông
|
||||
Thần
linh đất Việt – Vũ Thanh Sơn
|
||||
Kinh
A Di Đà – chú giải Đỗ Thuần Hậu – Minh giải Lương Sĩ Hằng
|
||||
Đàm
đạo với Phật Đà – Lý Giác Minh, Lâm Thấm
|
||||
Tốc
độ tư duy – Bill Gate
|
||||
Tôi
tầm đạo – Hồ Văn Em
|
||||
Tịnh
độ tông
|
||||
Teaching
of Swami Vivekananda
|
||||
Thượng
đế giảng chân lý – Kim Thân Cha
|
||||
Y
học cổ truyền – Trường Đại học Y Hà nội
|
||||
Tuệ
Tĩnh
|
||||
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư
|
||||
Khóa
Hư Lục – Trần Thái Tông
|
||||
Chết
an bình tái sinh hỷ lạc – Tulku Thondup
|