Sự
hình thành và phát triển tập đoàn Nhà nước có tầm cỡ quốc tế tại Việt Nam (TĐNN
VN QT)
1. Mục tiêu:
1.1.
Tạo ra nhiều công ăn, việc làm cho người lao
động Việt nam.
1.2.
Tạo ra uy tín, thương hiệu cho sản phẩm Việt
nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
1.3.
Tạo ra một tập tầm đoàn tầm cỡ quốc tế cho
con cháu sau này đỡ vất vả phải gây dựng.
2. Điều kiện:
2.1.
Có lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công nhân cỡ quốc
tế (Sẽ phải tập hợp và đào tạo, rèn luyện).
2.2.
Xây dựng hệ thống và vận hành theo chuẩn quốc
tế (Sẽ phải sắp xếp cho lại cho phù hợp).
2.3.
Tạo ra sản phẩm chất lượng cỡ quốc tế (Sẽ phải
tìm và lựa chọn trong chuỗi giá trị đã định hình trên toàn cầu).
3. Phương pháp thực hiện: (Kế hoạch các bước
thực hiện):
3.1.
Bắt đầu xây dựng tập đoàn NN từ trong nước.
3.2.
Lấy các Dự án (cầu Nhật Tân, Nhiệt điện Mông
dương, Công viên Yên Sở…), Khu công nghiệp
(Bắc Thăng long, Từ Sơn, Normura, …), Nhà máy, Công ty có vốn nước ngoài
hoặc liên doanh để làm thuê, học tập, rèn luyện và làm chủ các bước công việc,
qui trình, phong cách.
3.3.
Từng bước tiếp cận và đạt được như họ trong một
thời gian ngắn qua các Dự án, Công ty nước ngoài tại VN.
3.4.
Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý, vốn, môi
trường để phát triển tập đoàn.
3.5.
Nhà nước cũng quản lý, giám sát chặt chẽ các
tập đoàn Nhà nước này và thuê các tập đoàn lớn nhất trên thế giới cũng theo
dõi, đánh giá.
3.6.
Từng bước vươn ra thế giới qua làm thầu phụ,
nhân công, cung ứng thiết bị và tiến tới làm thầu chính, chủ đầu tư.
3.7.
Trả lương cho người lao động trong tập đoàn
NN: Trước mắt phải trả tương đương như người Việt làm trong các tổ chức Dự án,
Công ty nước ngoài để giữ chân họ trong TĐ, bao gồm: Lãnh đạo, Quản lý, Cán bộ,
Công nhân.
3.8.
Điều kiện làm việc của người lao động cũng phải
tương đương như người Việt làm trong các tổ chức Dự án, Công ty nước ngoài để
giữ chân họ trong TĐ, bao gồm: Lãnh đạo, Quản lý, Cán bộ, Công nhân.
3.9.
Phải xây dựng tư tưởng, chính trị liên tục,
triệt để bền vững trong TĐ để họ hiểu rõ nhiệm vụ nặng nề mà Đất nước, Nhân dân
giao phó cho họ. Phát triển mạnh tính Đảng trong TĐ để tạo sự thống nhất trong
Lãnh đạo, quản lý.
3.10. Thu
hút, tập hợp nhân tài Việt nam từ các DA, Công ty nước ngoài, liên doanh, nước
ngoài về TĐ làm việc, đóng góp, tư vấn, góp ý, lãnh đạo, quản lý,…
3.11. Tổ
chức đào tạo rèn luyện cho tất cả các cấp qua các Dự án, Công ty liên doanh, nước
ngoài.
3.12. Dần
dần tạo ra sự tự chủ trong các Dự án, Công ty mà trước đó phải thuê nước ngoài
quản lý, tư vấn (Từ 3-5 năm).
3.13. Lấy
một số dự án công ty có yếu tố nước ngoài để làm mẫu thực hiện, theo dõi, rút
kinh nghiệm.
4. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu khi hình thành
và phát triển TĐ:
4.1.
Các TĐ tư bản Âu, Mỹ, Nhật, Hàn đã có lịch sử
hình thành lâu dài cỡ trên 100 năm nên rất có
kinh nghiệm điều hành, tính toàn cầu và bền vững.
Tuy nhiên, nó là của các ông chủ, lợi nhuận tập
trung vào một hoặc một số người nên không thể tập trung vốn phát triển nhanh và
công nhân, người làm thuê không thấy đó là của mình sẽ không hết mình vì TĐ.
4.2.
Các TĐ Nhà nước Trung Quốc ra đời rất muộn chỉ
cách đây 30 năm nhưng đã hội tụ đầy đủ tính toàn cầu, tuy chưa có thương hiệu
như các tập đoàn tư bản nhưng tính cạnh tranh và sức mạnh tài chính kỹ thuật của
nó không kém so với tư bản.
Các Lãnh đạo, quản lý được Đảng và NN TQ chỉ
định nhưng những con người này đã mang trong mình tính tiên phong quốc tế. Người
lao động làm việc theo phong cách, môi trường quốc tế nhưng vẫn giữ được tính Đảng
và con người XHCN. Tài sản, lợi nhuận được tích lũy vào một nơi là Chính phủ,
NN nên dễ dàng lấy ra để đầu tư, phát triển những vấn đề cấp bách có lợi nhất
cho nhân dân, đất nước, quốc tế.
4.3.
Các tập đoàn NN Việt nam cũng được Đảng,
Chính phủ, NN, nhân dân kỳ vọng như vậy nhưng do nó chưa hội tụ đủ những điều
kiện tiên quyết trên nên dễ dàng bị đổ vỡ là không tránh khỏi. Ngoài ra TĐNN VN
cũng không tuân thủ chặt chẽ qui trình các bước thực hiện nên không thể hình
thành nên được.
Nhưng cũng phải hiểu rằng đó là những bài học
đắt giá để rút kinh nghiệm, thay đổi tốt lên, mạnh mẽ lên.
Việc hạ hai TĐ XD VN xuống thành TCT là một
sai lầm, vì ngành XD là ngành tiêu tốn tài sản XH nhiều nhất, có liên quan mật
thiết với quốc tế nhiều nhất, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
nhiều nhất, là môi trường lý tưởng để học tập, rèn luyện, tiến tới làm chủ, làm
thầu chính ngay tại các DA hàng tỉ, trăm triệu USD trong đất nước VN.
5. Triết lý của sự thành công:
5.1.
Hoạt động sản xuất của tư bản hay XHCN là đều
phải tạo ra lợi nhuận, nhưng tư bản là cho tư nhân còn XHCN là cho NN, nhân
dân, đó là khác nhau cơ bản nhất. Nhưng việc điều hành, quản lý, tổ chức nghiên
cứu, sản xuất là như nhau không có gì khác nhau.
Vậy, việc XD mô hình TĐNNVN phải điều chỉnh
theo quốc tế, chứ không phải xóa bỏ như vừa rồi để mất đi cơ hội, thời gian, uy
tín, niềm tin. Đúng là mô hình vừa qua lộn xộn, không tập trung được sức mạnh tổng
thể vì tính manh mún, chưa có hệ thống, chưa có người cầm trịch đủ uy tín thống
lĩnh. Ta không lấy một số Dự án quốc tế điển hình trong nước để các công ty XD
trong TĐ thực hiện, học tập để tự hình thành mà chủ quan chỉ cho thực hiện những
DA của NN đầu tư không có sự kiểm soát và hệ thống chuẩn quốc tế.
5.2.
Nhiệm vụ XD nên TĐNNVN cỡ QT sẽ khó khăn,
gian khổ không kém gì những nhiệm vụ
Cách mạng to lớn khi xưa vì nước ta đi sau, chiến tranh mất mát bao nhiêu anh hùng,
tuấn kiệt, không được va chạm, học hành đầy đủ từ quốc tế. Trong khi đó chuỗi
giá trị trên thế giới đã được hình thành vững chãi và đặc biệt là nước láng giềng
to lớn, khổng lồ có bề dày văn hóa, kinh doanh cả 1000 năm cạnh ta đã chiếm
lĩnh hầu hết tất cả các thị trường. Do đó chúng ta phải có chiến lược, chiến
thuật hết sức hệ thống, bài bản, rõ ràng, chắc chắn.
5.3.
Sự hình thành nên TĐNNVN là không khó vì Đảng
và NN luôn ưu tiên hàng đầu như thời gian vừa qua vì Đất nước chúng ta rất cần
nó.
Nhưng cũng có cái dở là đẻ ra mà không biết
nuôi dạy sẽ dễ hư hỏng do chưa có kinh nghiệm quản lý, điều hành, chưa tạo ra được
sản phẩm cỡ thế giới.
5.4.
Tư bản họ có cái hay là đã có đầy mình kinh
nghiệm tích lũy quản lý, điều hành, phát triển tới toàn cầu cả thế kỷ nên con
người, hệ thống của họ rất chuẩn mực.
Nhưng họ cũng có cái dở là cá nhân, tư hữu
nên hạn chế việc phát triển nhanh.
5.5.
Trung Quốc trong 30 năm 1978 – 1998 đã hình
thành nên những TCT, Công ty cỡ lớn nhất trên thế giới là vì họ XHCN, NN chỉ đạo,
hỗ trợ, huy động được chất xám, vốn của Hoa kiều, tận dụng công nghệ của các nước
phát triển.
Nhưng họ có cái dở là kiêu căng, bành trướng
nên cả thế giới không ưa.
5.6.
Công cuộc Cách mạng giành độc lập dân tộc của
chúng ta quá dài, suốt từ 1858 – 1988 (kể cả chống Tàu) là 130 năm, lúc mà cả
thế giới họ làm ăn, chiếm đất đai, thì có đâu thì giờ mà làm kinh tế, xây dựng
đất nước, tập đoàn này nọ.
Nay ta phải xây dựng từ đầu mà lại đòi hỏi
như họ ngay là không thể và hoang tưởng, nhưng từng bước chắc chắn cùng thời
gian thì nhất định ta sẽ đuổi kịp như Ta và Tầu xưa kia.
Vậy
giai đoạn Cách mạng mới ta phải có hai mục tiêu chính song song và lấy mục tiêu
đầu làm cốt lõi:
Việc đầu tiên chắc chắn là phải xây dựng
được những con người mới XHCN trong KHKT, quản lý, sản xuất mang tầm quốc tế,
những anh hùng thời đại biết hy sinh cái tôi cá nhân, lợi ích bản thân để gia
tăng lợi ích quốc gia, dân tộc.
Việc thứ hai là phải xây dựng ngay những
tập đoàn NN tầm cỡ quốc tế và phải coi đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân, lâu dài, gian khổ, khó khăn mới có thể đạt được.
5.7.
“Thương trường là chiến trường”,Ta có thừa
kinh nghiệm chiến trường nhưng chưa có kinh nghiệm thị trường, nhưng “thương trường là chiến trường” nên hai kinh
nghiệm đó lại là một, đó là:
-
Tính
kỷ luật.
-
Tính
linh hoạt, sáng tạo.
-
Có
chiến lược, chiến thuật.
-
Tính
bền bỉ, dẻo dai, kiên trì, nhẫn nại.
-
Chịu
khó lao động, học tập.
-
Đoàn
kết, nhất chí.
-
Thương
yêu, tình cảm, chia xẻ.
-
Tận
dụng mọi điều kiện có thể để hành động và tạo ra kết quả tối ưu.
-
Tính
tổ chức, phối hợp hành động.
-
Tính
quốc tế, hòa đồng, khả năng ngoại ngữ rất tốt.
-
Tính
chiến đấu.
-
Tín
ngưỡng, tâm linh cao.
Vậy kinh nghiệm xưa chính là
những nhận thức, kiến thức quí báu đã được đúc kết, tích lũy sẽ không lãng phí
mà ngược lại nó lại rất hữu ích và là hành trang vô giá để cả dân tộc bước vào
một công cuộc Cách mạng làm ăn lớn với thế giới, thương trường bên ngoài. Nhưng
để tiến kịp họ cũng phải cả thế kỷ và không dễ dàng gì, với bao lo toan, mất
mát, cạnh tranh, gian khổ, trường kỳ từng bước, từng bước chắc chắn đạt đến thắng
lợi. Công cuộc này nhất định thành công vì nó do dân, vì dân, vì nước nên sẽ được
sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, kiều bào và tiến nhanh hơn so với sự hình
thành của các tập đoàn tư bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét