Phong
thủy là môn khoa học cổ Phương Đông đã được tổng kết từ cuộc sống thực tiễn lâu
dài, nhằm chỉ cho con người vào những vùng đất, chỗ ở, nơi chôn cất có trạng
thái thoải mái, yên tâm, an toàn, phát triển, sinh sôi, nảy nở trong cuộc sống
lâu dài và thường nhật.
Cuộc
sống đương đại hiện tại cũng đang áp dụng rất nhiều các thanh tựu của phong thủy
để làm cho cuộc sống thêm hữu ích và thi vị.
Các
khu phong thủy nổi tiếng của Việt Nam như Côn Sơn, Hồ Tây, Đá Chông, … là các mẫu
hình khu phong thủy điển hình “sơn hoàn, thủy bao hữu tất sinh khí”.
Muôn
loài đều biết tìm cho mình chỗ ở nơi yên tĩnh, kín gió, an toàn, kín đáo. Loài
người cũng vậy, để phát triển nhất trong muôn loài thì họ không những biết tìm
cho bản thân, mỗi gia đình mà còn biết tìm cho cả cộng đồng của mình lúc sinh
thời (lúc sống) cũng như sinh phần (lúc chết).
Vậy
tại sao người ta không gọi là Đất Thủy, Núi Thủy, Núi Phong, Biển Lửa, … mà lại
gọi là Phong Thủy, mặc dù những yếu tố Đất, Lửa, Gió, Nước, Thức ăn đều liên
quan tới cuộc sống của con người, ở mọi thời đại, mọi nơi, mọi lúc. Là vì gió
và nước (Phong và Thủy) có sự liên quan rất chặt chẽ tới an ninh lương thực và
sức khỏe của loài người. Thủy là vấn đề tưới tiêu thủy lợi, nguồn nước, giao
thông đi lại đường thủy, ngập úng, cảnh đẹp, đánh bắt cá tôm thủy sản. Ngoài việc
tìm ra lửa để sưởi ấm, nấu chín thức ăn, đe dọa các loài thú cạnh tranh thì gió
lại liên quan tới sức khỏe, nơi ở như bão, lốc, gió lạnh, gió lùa khi quần áo,
chăn màn, nhà cửa chưa được đầy đủ, chắc chắc. Nhưng nói là chỉ Phong Thủy cũng
không phải hoàn toàn là như vậy mà các yếu tố như đất, núi, nơi chốn cũng có sự
liên quan chặt chẽ nếu không muốn nói là rất chặt chẽ tới phong thủy vì đó
chính là nơi sinh sống, trú ngụ của loài người. Nơi có phong thủy tốt thì cây cối
tốt tươi, đất đai phì nhiêu cuộc sống sinh sôi, nảy nở như đồng bằng Sông Hồng,
Sông Cả, Sông Mã, Sông Hoàng Hà, Sông Nin, Sông Hằng, Sông Amazon, Sông Mê
công, …
Lâu
dần sau hàng nghìn năm tổng kết lại con người ta rút ra các yếu tố chính cốt
lõi về môi trường sống chỉ còn hai chữ Phong Thủy. Nhưng đi vào tìm hiểu sâu
thì Phong là nơi sinh sống phải có Gió nhưng là đón được gió lành, tránh bão lốc,
có nghĩa là man mát, dễ chịu, không được thổi thốc, trực diện gây cảm, ngất (phải
Gió). Thủy là nơi sống phải có nước như đoạn trên đã nói. Phong Thủy là sự kết
hợp có cả nước và gió để tạo điều kiện sống tốt nhất cho khu vực, địa hình đất
đai đó. Do vậy, một khu đất, địa thế đất tốt là địa thế, khu vực phải có Phong
Thủy tốt, có nghĩa là xung quanh phải có nước để sinh hoạt, giao thông, thoát
nước, tưới tiêu, cảnh quan, môi trường. Ngoài nước xung quanh thì phải có núi
bao quanh không cao quá để tạo ra bức tường chắn gió bão, gió lạnh và chặn quân thù bảo vệ khu vực sinh sống.
Địa thế, khu vực này có thể to lớn như cả khu vực Thăng Long Hà nội, hay nhỏ
hơn như Côn Sơn, Đá Chông, … đều mang dáng vóc Phong Thủy chuẩn mực. Vì vậy,
các nền văn minh lớn trên thế giới đều sinh ra cạnh các con song lớn như trên
đã nói.
Vì
Phong Thủy ảnh hưởng mạnh tới cuộc sống như vậy nên con người ta càng tôn sùng
nó và đi sâu vào nó hơn, để áp dụng vào cuộc sống. Các khu đô thị lớn, hiện đại
như Park City Kualalumper áp dụng mạnh nhất yếu tố Phong Thủy vào để thiết kế,
xây dựng phục vụ con người chứ không như các khu lăng tẩm, miếu mạo Huế chỉ phục
vụ chôn cất, mai tang, gây lãng phí. Các yếu tố như nước, đá, cây xanh được bố
trí hài hòa với nhà cửa, đường xá, khu sinh hoạt công cộng, con người được hòa
mình vào thiên nhiên, trở về với thiên nhiên, cái mà chỉ vua chúa, quan lại ngày xưa mới được hưởng.
Phong
Thủy xuất hiện mọi nơi trong cuộc sống hiện đại, từ kính chắn gió xe ô tô, mũ bảo
hiểm xe máy cho tới máy bay, tàu ngầm, tàu sân bay, các tòa nhà cao tầng, các hầm
ngầm, đường ngầm xuyên đất, sông, biển, đó là những thiết bị nhân tạo tránh được
những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất để đảm bảo cuộc sống, sinh hoạt tốt
nhất cho sức khỏe cho con người. Ngoài ra các thiết bị hiện đại tối tân khác
như tàu vũ trụ, trạm không gian là những thiết bị nhân tạo có thể đảm bảo cho
con người chống lại các yếu tố khắc nghiệt nhất của vũ trụ còn hơn cả trái đất.
Ngày
nay do loài người trở nên quá đông đúc, ăn ở, đi lại tốn kém diện tích, phá hoại
môi trường sống, gây ô nhiễm toàn cầu và khoảng không, làm ảnh hưởng cuộc sống
muôn loài và đe dọa sự sống của trái đất. Vì vậy, thế giới, các quốc gia, các tổ
chức đang cùng nhau chung tay để bảo vệ môi trường sống cho muôn loài và trái đất,
chứ không còn là Phong Thủy nhỏ bé nữa.
Các
câu chuyện về Phong Thủy bản thân tôi trải nghiệm và biết:
1.
Khu
mộ tổ Nguyễn Học ở La Khê – Hà Đông – Hà nội:
Dự
án Park City Hà nội 78 ha thuộc làng La Khê và Yên Nghĩa – Hà đông. Trên mảnh đất
này khi xưa tới 2008 là ruộng lúa, sau đó được chuyển đổi thành đất dự án đô thị.
Giữa DỰ ÁN có ngôi mộ tổ dòng họ Nguyễn Học làng La Khê, ngoài ra có mộ của Bia
Bà – Người truyền nghề dệt lụa nổi tiếng cả nước cho vùng Hà Đông đã chuyển vào
đình làng. Các khu mộ xung quanh cũng đã được di dời. Nói về khu mộ tổ dòng họ
Nguyễn Học có rất nhiều sự liên quan tới Phong Thủy.
Khu
Mộ đã có từ 300 năm do người thầy Tàu xem hộ khi ông này được nuôi ăn ở nhà cụ
tổ họ Nguyễn Học. Dòng họ này ở làng La Khê có nghề dệt lụa siêu việt và thường
xuyên cung cấp cho cung đình Huế. Vì vậy, kinh tế của dòng họ rất mạnh, đặc biệt
là nhà trưởng họ. Thời mở cửa khi Nhà nước
đầu tư lại nghề dệt lụa ở Văn Khê (La Khê) thì một chiếc áo lụa tơ tằm trị giá
cả vài tỉ đồng. Do đó, việc mua lại cả mấy mẫu ruộng làm chỗ chôn cất cho cụ
trưởng họ theo đúng Phong Thủy là chuyện thường tình khi đó.
Mộ
nằm giữa Dự án nên khi qui hoạch mở xây dựng con đường Lê Trọng Tấn, Lê Văn
Lương thì khu mộ vẫn nằm giữa dự án mà không bị ảnh hưởng gì. Thế mới thấy đúng
Phong Thủy thì qui hoạch cùng khó bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
có nói cứ 500 năm trời đất lại đổi thay, xoay vần. Do vậy khu mộ tổ họ Nguyễn Học
ở La Khê Hà đông cũng khó tránh khỏi qui luật tự nhiên 500 năm thay đổi và phải
di dời. Trước khi họ Nguyễn Học mai tang cụ Tổ ở đó, cách đây 300 năm, thì trước
đó 200 năm cũng đã có người an tang mộ ở vị trí này rồi, vì tiểu dùng cho việc
an tang là dạng chum sành đậy nắp chứ không phải tiểu hộp chữ nhật nữa. Có
nghĩa rằng việc phải di dời khu mộ này cũng đúng theo qui luật 500 năm là Trời
Đất sẽ đổi thay.
Khu
mộ được để trong 10.000 m2 đất được mua từ ruộng lúa của làng cho thấy sự sòng
phẳng, đàng hoàng của dòng họ và văn hóa Việt khi sử dụng cho những mục đích lớn.
Toàn bộ 1 ha này lại nằm giữa gần 100ha ruộng La Khê, Yên Nghĩa – Hà đông.
Mộ
được chôn cùng rất nhiều ngôi khác có trước cả họ Nguyễn Học tới vài trăm năm. Có nghĩa là có một số người
trước đó đã biết ở đây có huyệt tốt.
Huyệt
mộ lần đầu tiên được nhìn thấy rất giống các tài liệu Phong Thủy mô tả, đây là
điều kỳ diệu trong thiên nhiên mà lần đầu tiên tận mắt được nhìn thấy, nhưng
không dám chụp lại vì sợ ảnh hưởng tâm linh.
Cuộc
di dời mộ qui mô, hoành tráng. Các cụ và dòng họ họp hành để tổ chức di dời, họ
nhờ các bậc cao tăng xem giúp, cúng lễ cẩn thận để tránh sai sót khi thực hiện.
Công ty ParkCity tôi được cử làm việc trực tiếp với dòng họ nên cũng rất cẩn thận
và coi đó như việc của họ nhà mình. Việc cúng lễ đều do các cụ trong họ đảm nhận
và cao tăng Hà Tây cũ (Hà nội) giúp đỡ nên công việc xuôn xẻ, các cụ phù hộ.
Tuy
nhiên tôi ốm rất nặng sau khi di mộ mà không tìm ra được nguyên nhân, kể cả khi
khám chữa ở bệnh viện Hồng Ngọc. Sốt tới 40oC, đắp bao chăn, quạt sưởi, điều
hòa nóng mà vẫn lạnh không chịu nổi. Bác sĩ trong viện Hồng Ngọc truyền nước
nhiệt độ lại tăng thêm nên bỏ truyền. Nhưng thật may mắn và tình cờ khi tối đó
nhỡ thò một chân ra khỏi chăn thì thấy khí nhiệt ở trong người thoát ra qua
lòng bàn chân và không thấy rét nữa, lại thử thò tiếp chân nữa thấy cả hai chân
nhiệt đều thoát ra. Lại thử đi tất dầy xem sao thì thấy không thoát được khí
trong người, lúc đó quyết định thò cả tay chân ra ngoài chăn và sáng hôm sau
nhiệt giảm từ 40oC còn 35oC, hỏi bác sĩ thì bảo cẩn thận không trụy mạch. Sau
đó ốm sốt giảm và khỏi, qua đợt đó cứ bị sốt cao là cho tay cân ra khỏi chăn để
hạ sốt (hình như khí trong người thoát ra qua Dũng Tuyền và Lao Cung nên mới
nhanh thế). Khi hỏi một thầy hiểu biết về âm dương có bảo mình bị các vong chôn
theo ngôi chủ nhập vào và oanh tạc cơ thể, vì những ngôi theo đó khi di chuyển
ra chỗ mới thì họ hàng không có (do chôn trộm vào huyệt đã có ngôi chính họ
Nguyễn Học ở đó) nên vong không có ai thờ cúng sẽ bị vất vưởng. Không thể cúng
bái hoặc nhờ thầy cao tay đuổi họ ra khỏi người mình được mà phải thuyết phục họ.
Thế là mình lại luyện Thiền ngay trong đợt sốt cao độ đó, cùng đưa tay chân ra
ngoài. Qủa thật họ tự rút lui dần ra hết. Còn các cụ họ Nguyễn Học lại bảo do mở
Long Mạch ra lâu quá mà không lấp vào ngay nên động lớn ở khu đất đó làm ảnh hưởng
tới mình, chứ việc dòng họ đã xong và làm tế lễ rất cẩn thận. Nghĩ lại thấy
mình cũng liều, nhưng làm nghiêm túc, cẩn thận và cũng theo qui luật 500 năm một
lần là có sự biến dịch lớn của Trời Đất chứ không phải vì tiền bạc, quàng xiên
cho xong.
HĐQT
VIDC cũng ra cúng lễ khi thấy mình báo cáo là ốm sốt do động mồ mả dòng họ Nguyễn
Học, các anh chị ấy cũng không sao lúc bấy giờ, nhưng sau làm ăn lụn bại và cuối
cùng thì Dự án Park City Hà nội đổ bể, nội bộ liên doanh chia rẽ, phía Mã Lai
mua lại DA của phía trong nước, các hạng mục công trình dở dang chưa đâu vào
đâu.
Trước
ở họ nhà mình có thầy phong thủy xem cho trong Hà Đông La Khê có huyệt tốt để đặt
mộ cụ Giáo, nhưng khi đem vào thì đã có mộ cụ Nguyễn Học Tổ ở đó, nên sau đó chị chôn ở cạnh đấy, ngôi mộ
này sau cũng tìm lại được và mang về an tang lại quê hương Tứ Tổng.
Mọi
người trong dòng họ Nguyễn Học có kể, các thế hệ họ chiến đấu ở chiến trường chống
Pháp, Mỹ mà không ai bị thương tật, hy sinh. Trong dòng họ rất thành đạt cả về
học hành lẫn làm ăn, qua chức, nhưng trước khi di mộ Tổ một năm thì xảy ra gẫy
chân, tay, tai nạn chết người, bị thương trong dòng họ Nguyễn Học. Các cụ xem
thì bảo do việc động mộ do san lấp gây ra, vậy nên dòng họ mới đồng ý gặp chính
quyền địa phương, cơ quan xin di chuyển.
2. Hồ Tây:
Ngày
xưa vào khoảng tháng 11 năm Hàm Thông thứ 7 (866) Cao Biền (821- 887) người Tàu
là Thái Thú Giao Chỉ rất giỏi về Phong Thủy có đi tìm và yểm bùa những chỗ linh
thiêng trên đất Việt để người tài giỏi không thể nảy sinh. Khi yểm ở Hồ Tây thì
thần Tô Lịch có hiện nên nhắc nhở rồi ông ta không làm được nữa.
Cao
Biền yểm ở (Cổ Pháp) Đình Bảng Từ Sơn Bắc Ninh bằng cách đào đứt con sông Điềm cắt
long mạch và những ao Phù Chẩn, … đến 19 chỗ, vì thấy ở đó có khí tượng đế
vương. Sau này là vua sáng xuất hiện (Lý Công Uẩn). Nhưng bị thiền sư Đinh La Qúy
phá bằng cách khuyên Khúc Lãm lấp lại chỗ đào sông, rồi trồng thêm cây gạo để trấn chỗ đứt, vì thiền
sư biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Thiền pháp. Sau khi thiền
sư tịch, con khéo đắp một ngon tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ
cho người thấy. Năm Đường Thanh Thái thứ 3 (936), Sư trồng cây bong gạo, thường
có bài kệ rằng:
“Đại
sơn đầu rồng ngửng,
Đuôi
cù ẩn Châu minh
Thập
bát tử định thành
Bông
gạo hiện long hình
Thỏ
gà trong tháng chuột
Nhất
định thấy trời lên”.
Nhà Lý ra đời vào tháng 10 năm Đinh Dậu Cảnh
Thụy thứ hai (1009) và được 18 đời vua.
3.
Ông
Tả Ao:
Tả Ao hay Tả Ao
tiên sinh, là nhân vật làm nghề địa lý phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam. Ông được cho
là tác giả của một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt
Nam. Trong dân gian tương truyền nhiều giai thoại cổ về hành trạng thuật phong
thủy của ông ở các làng xã Việt Nam thời xưa. Tả Ao có quê ở làng Tả Ao, phủ
Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Ban thờ Tả Ao
tại đền Nam Trì.
|
Cuộc đời
Cái tên Tả
Ao không phải là tên thật của nhân vật này, mà là tên làng quê của ông,
được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của mình. Cũng tương truyền, tên
ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra để gọi, mà không gọi tên thật.
Tên thật của ông thì không rõ ràng. Bách khoa toàn thư Việt Nam viết rằng: Tả
Ao, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng
Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông,
lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có
tên là Nguyễn Đức Huyền. Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống
thời Lê sơ (Lê Thánh Tông , Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng
những năm 1442-1509) [cần dẫn nguồn]. Có tài liệu
cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704).
Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính
tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy
Việt Nam của Ngô Nguyên Phi... đều nói sơ lược về lai lịch Tả Ao.
Các sử gia thời
Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong
một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này.
Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân
truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao
chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao
tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các tác phẩm
này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên
Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.
Tả Ao còn để
lại hai bộ sách, đó là: Địa đạo Diễn ca (120 câu văn
vần), Dã đàm hay Tầm Long gia
truyền Bảo đàm (văn xuôi) và một số dị bản khác: "Phong thủy Địa
lý Tả Ao Địa lý vi sư
pháp", "Phong thủy Địa lý Tả Ao Bảo ngọc thư" (của Vương
Thị Nhị Mười-Nhà xuất bản Mũi Cà Mau-2005) và "Dã đàm Tả Ao" (của Cao
Trung xuất bản tại Sài Gòn năm 1974)"...
Các sách vở
cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao, là thuỷ
tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thuỷ Việt Nam, giỏi địa lý phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc. Người đời xưa
còn truyền lại bài thơ ca ngợi ông:
o
Tả Ao phong thuỷ nhất trên đời
o
Hoạ phúc cầm cân định chẳng sai
o
Mắt Thánh trông xuyên ba thước đất
o
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời
o
Chân đi Long Hổ luồn qua gót
o
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời
o
Ai muốn cầu sao cho được vậy
o
Mấy ai địa lý được như Tả Ao.
Giai thoại và
truyền thuyết
Tả Ao Tiên sinh
- Thầy địa lý Tả Ao là ông Mỗ (không xác định được danh tính). Thuở nhỏ, mồ côi
cha, nhà nghèo, mẹ mắt lòa, ông theo một khách buôn ở phố Phù Thạch (gần rú
Thành ở Nghệ An) về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả
Ao có hiếu nên hết lòng dạy cho. Khi có thày địa lý bị mù loà mời ông thày đến
chữa, do già yếu nên ông thày sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù
loà, ông thày địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề
cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu
học, để trả ơn chữa bệnh nên thày địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã
giỏi. Để thử tay nghề của học trò, ông thày bèn đổ cát thành hình núi sông và
vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên
kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ
sai có một. Xong ông thày nói: Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi. Rồi
cho Tả Ao cái tróc long và thần chú. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân
mẫu.
Trước khi từ
biệt, ông thày địa lý bên Tàu dặn: Khi về Nam, nếu qua núi Hồng Lĩnh thì đừng lên. Nhưng một lần
đi qua Hồng Lĩnh, không hiểu duyên cớ gì Tả Ao lại lên núi và thấy kiểu đất Cửu
long tranh châu (chín rồng tranh ngọc), mừng mà nói rằng: Huyệt đế vương
đây rồi, thày dặn không lên là vì thế. Bèn đưa mộ cha về táng ở đấy. Ít
lâu, vợ Tả Ao sinh hạ được một con trai.
Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc, các thày
thiên văn phát hiện các vì tinh tú đều chầu về nước Nam nên tâu với nhà Vua, ý
là nước Nam được đất sẽ sinh ra người tài, sẽ hại cho nhà Minh. Nhà Vua bèn
truyền các thày địa lý là nếu ai đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì phải sang
tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc. Ông thày của Tả Ao biết là chỉ
có học trò của mình mới làm được việc này nên cho con trai tìm đường xuống nước
Nam mà hỏi: Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia tiên nào chưa.
Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con thày Tàu dùng mẹo cất
lấy ngôi mộ, bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu. Rồi thân mẫu của Tả Ao mất, Tả
Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi hải đảo để táng. Đến ngày giờ định táng
thì trời gió to sóng lớn, không mang ra được. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó
nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng: Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng
mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi.
Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu du khắp bốn phương để chữa bệnh,
tìm đất giúp người.
Khi già yếu, Tả
Ao cũng đã chọn cho mình chỗ an táng kiểu đất Nhất khuyển trục quần dương (chó
đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai. Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành
Địa Tiên. Tả Ao có hai người con trai nhưng do Tả Ao chu du thiên hạ, không
màng dang vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi,
biết mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, để nằm dưới mộ
và sẽ tự phân kim (chôn lúc chưa chết hẳn), dặn con cứ thế mà làm. Mới được nửa
đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi nên Tả Ao bèn chỉ đại một gò bên đường
mà dặn con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ
được người ta cúng tế. Hai con bèn táng luôn ở đó (Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án - NXB Văn học
2001, sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính - NXB Thanh niên 1999).
Tả Ao tìm được
chỗ táng cho thân mẫu ngoài bãi biển nhưng khi chuẩn bị táng thì mưa gió, sóng
biển ầm ầm nên người anh trai sợ mất mộ nên không cho táng. Khi Tả Ao ngã bệnh
phương xa mới sai học trò đưa về để táng tại nơi đã chọn. Được nửa đường người
họa trò lại mất trước. Về đến quê thì Tả Ao ốm nặng bèn sai người nhà mang đến
chỗ ấy. Đường thì xa, liệu chừng không đưa được đến nơi nên bèn chỉ cái gò bên
đường... (Sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính - NXB Thanh niên 1999).
Ngày nay ở Việt
Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng
trong dân gian như việc Tả Ao, Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (như Tả Ao
phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên ở Hà Nội, núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa,… ), các
truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ
mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác. Tương truyền làng này có tục nọ,
nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát danh khoa bảng, họ kia
phát công hầu khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo đặt mồ mả. Có một
truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay tại thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên (nơi có đền
thờ Tả Ao): Truyền tích gắn liền với ngôi đền thờ Tả Ao làng Nam Trì còn lưu truyền đến ngày nay là thời kỳ Tả Ao
ở khu vực Hưng Yên một thời gian. Tả Ao về huyện Thiên Thi (tên cũ của Ân Thi)
đã đã cắm đất, chọn ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho hai làng Thổ Hoàng (nay thuộc thị trấn Ân Thi) và Hới (tức làng Hải Triều, trước thuộc huyện Tiên Lữ, nay thuộc Hưng Yên) phát về đường
khoa cử, giàu có nên lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ nhất Thi nhì Hới.
Tại Nam Trì, Tả Ao đã giúp dân làng lập lại làng, chuyển đền, chùa và tìm đất
đặt mộ phần cho họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu
Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam Trì
là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ
nhiệm làm quan Hiến Sát xứ Hải Dương, được phong tước Phù Nham bá.
Hậu duệ của Đinh Tú (lăng mộ tại Nam Trì), chuyển sang sống ở làng Hàm Giang (Hàn Giang)
huyện Cẩm Giàng là Đinh Văn Tả là một danh tướng thời Lê-Trịnh.
Đền thờ
Có rất nhiều
truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, nhất là giai thoại khi Tả Ao
mất, táng ở “ngôi Huyết thực” để được một làng cúng tế. Thực tế, cũng chưa thấy
ở đâu (kể cả ở quê hương) có đền thờ Tả Ao và cũng không thấy Tả Ao được phong
thần. Hiện nay, có lẽ là duy nhất ở thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh
Hưng Yên có thờ Tả Ao. Đền Nam Trì nguyên thờ tam vị Thượng đẳng phúc Thần: Tể
tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công), Cao Biền (Cao Vương) và
Tả Ao gắn với Lễ hội Nam Trì (hay Lễ hội: Bảo, Lang, Biền). Trong
danh sách 7 vị thần thờ ở đền Nam Trì (3 vị trên và 1 vị phu nhân Lữ Gia và 2
vị phu nhân Cao Biền) thì vị thứ 7 là Nguyễn Lang nhưng thực tế ở Nam Trì thì
chỉ biết vị thứ 7 là Tả Ao chứ không biết Nguyễn Lang là ai.
Theo lịch sử và
thần tích thờ tự đền Nam Trì thì khi Tả Ao giúp dân làng lập lại làng, chuyển
chùa, đền thờ về phía Tây Nam; nhớ công ơn Tả Ao dân làng Nam Trì đã tôn Tả Ao
là vị Bản cảnh Thành hoàng và thờ cùng tam vị Thượng đẳng phúc Thần từ đó đến
nay. Hiện trong đền Nam Trì có câu đối của Tả Ao tả về địa lý, phong thuỷ làng
Nam Trì: Tây lộ khê lưu kim tại hậu - Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền nghĩa
là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây
Bắc (hướng tây bắc hành kim) - phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về
hướng đông nam (hướng đông nam hành mộc).
4.
Cao
Biền:
Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên
Lý (千里); 821–887) là
một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ
năm 866 đến
năm 875 với
chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ
tiên là người Bột Hải (một
quốc gia của người Triều Tiên tọa lạc ở phía đông Mãn Châu), sau di cư đến U
Châu.
|
Cuộc đời
Cao Biền người gốc Bột Hải (Mãn Châu), sau ngụ U Châu.
Cha là Cao Thừa Minh, ông nội là Nam Bình quận vương Cao Sùng Văn, thời Đường Hiến Tông Lý Thuần (806-820) là một danh tướng, chỉ huy cấm quân.
Từ khi còn nhỏ, Cao Biền đã là người rất chịu khó trau dồi về văn học. Giao du
với các nho sĩ, ông thường bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Cao
Biền theo Chu Thúc Minh, làm tư mã. Cao
Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, sau vì có công, lại
được thăng làm phòng ngự sứ Tần Châu. Những
năm đầu thời Đường Ý Tông (859–873), Cao Biền chỉ huy quân tại biên cương phòng
chống người Đảng Hạng và Thổ Phồn, kiêm
Tần Châu thứ sử.
Năm Hàm
Thông thứ bảy (866), Cao
Biền sang trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hi Tông (873–888), nhà Đường chuyển ông đến cai quản Tây
Xuyên. Cao Biền là người
nghiêm khắc nhưng lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Tuy vậy, trong
thời gian cai quản Tây Xuyên ông đã có công lui quân Nam Chiếu.
Năm Càn Phù thứ sáu (879) quân
đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến
về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Trấn Hải Quân tiết độ
sứ (ngày nay là Trấn Giang, Giang Tô). Quân
của Hoàng Sào chuyển hướng tiến về hướng nam tới Chiết Giang. Tháng 5 năm Quảng Minh thứ nhất (880) tại Tín Châu (ngày
nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây) quân
Hoàng Sào giết chết Hoài Nam tiết độ sứ (ngày nay là bắc Dương Châu, Giang Tô).
Tháng bảy, quân Hoàng Sào vượt qua Trường Giang. Cùng năm, quân Hoàng Sào từ Quảng Châu (ngày nay thuộc Quảng Đông) tiến lên phía bắc tới khu vực Giang-Hoài, Cao Biền
khiếp sợ uy thế Hoàng Sào, chỉ cố thủ Dương Châu, dù binh lực có trên 100.000,
để bảo tồn lực lượng. Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp
điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của nhà Đường mà
lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà
Đường bãi miễn Cao Biền.
Về già, Cao Biền trở nên tin vào phép thuật thần tiên,
trọng dụng thuật sĩ làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài-Nam là Tất Sư
Đạc rất lo sợ, năm Trung
Hòa thứ năm (885) Cao
Biền tạo phản, nhà Đường cử Tuyên Châu quan sát sứ là Tần
Ngạn trợ chiến với Tất Sư
Đạc. Năm Quang Khải thứ ba
(887), Tất
Sư Đạc xuất quân từ Cao Bưu, hợp cùng các tướng khác tấn công Dương Châu. Cao Biền
phái người đi cầu cứu Dương Hành Mật, nhưng người của Cao Biền chưa tới nơi thì thành Dương
Châu đã bị phá, Cao Biền bị bắt làm tù nhân, một thời gian sau bị Tần
Ngạn, Tất Sư Đạc giết chết.
Tại Giao Châu
Năm Ất Dậu (865) Cao Biền được nhà Đường cử là đại tướng
họp cùng giám quận là Lý Duy
Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để
giải quyết vấn đề Nam Chiếu. Cao
Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm dẫn 5.000 quân làm tiền đạo
và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn
Cao Biền thành công, và biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự ắt sẽ
thắng trận. Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có
phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần
thực lực mà thất bại. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng binh
nguyên vẹn tại chỗ.
Giám quận nhà Đường là Trần
Sắc lại phái thêm 7.000
quân do tướng Vi
Trọng Tể điều khiển sang tăng
cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận đã
thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, và tháng 6 năm 866 cho báo về Trung Quốc. Tháng 9
năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông (865), Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu đang gặt
hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) và
cướp thóc lúa đem về nuôi quân.
Biết tình thế khó khăn, vua Nam Chiếu phái Đoàn Tú Thiên làm tiết độ sứ đất
Thiện
Xiển (kinh đô riêng của Nam
Chiếu ở tây bắc Giao Châu), phái Dương Tư Tấn đến giúp Đoàn Tú
Thiên giữ Giao Châu, và cho Phạm Nê
Ta làm đô thống phủ đô hộ.
Tin báo thắng trận của Cao Biền đến Hải Môn thì bị Lý Duy
Chu chặn lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của Cao Biền liền
cho hỏi Lý, Lý nói dối rằng Cao Biền vẫn không chịu xuất quân và án binh bất
động ở Phong Châu. Thực ra lúc đó Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu, hàng
được hơn 1 vạn quân, và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 ngày.
Trong lúc đó Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới
thay họ Cao, và trước khi về kinh, Cao Biền đã phái Tăng
Cổn về Trung Quốc trình bày
tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của họ Lý. Sau khi giao binh quyền, Cao
Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền được
thăng chức kiểm hiệu công bộ thượng thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục
việc đánh dẹp. Trong lúc này Vương Án Quyền và Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương
Án Quyền thì nhút nhát còn Lý Duy Chu lại tham lam tàn ác nên tướng tá không
phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được vòng vây 2 lần trốn thoát quá nửa.
Đến khi Cao Biền trở lại, tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì
hạ được thành, đánh bại được Dương Tư Tấn, chém được Đoàn Tú Thiên, Phạm Nê Ta,
Nạc Mi và Chu Cổ
Đạo là thổ mán đã làm hướng
đạo cho Nam Chiếu cùng sát hại hơn một nửa quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh
phá 2 động thổ mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Tháng 11 cùng năm, nhà
Đường đặt Tĩnh Hải quân, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ kiêm hành doanh chiêu
thảo sứ các đạo. Bắt đầu từ đấy, Giao Châu đổi tên thành Tĩnh Hải quân tiết trấn.
Xét ra Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng
tai hại. Từ đó Cao Biền ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Sau khi Nam Chiếu bại
trận được vài năm, Trung Quốc bị loạn. Nam Chiếu lại
lợi dụng cơ dấy quân. Vua Đường muốn phương nam được ổn định nên điều đình gả
công chúa cho vua Nam Chiếu. Nam Chiếu liền cử một phái bộ đặc biệt sang đón
công chúa trong đó có mấy thượng tướng. Cao Biền gửi mật thư cho vua Đường bảo
trong phái bộ có 3 nhân vật cao cấp nhất là linh hồn của Nam Chiếu nên đầu độc
họ để trừ hậu họa, sau này Nam Chiếu có phục hồi được ắt cũng còn lâu. Vua
Đường y lời cho đánh thuốc độc vào rượu, các sứ giả Nam Chiếu bỏ mạng nhờ vậy
nhà Đường giữ Giao Châu thêm một giai đoạn.
Cao Biền khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh
để đề phòng giặc giã. Một kỳ công của ông là việc dựng lên thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bốn mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2
trượng 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy
theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng rưỡi,
dầy 2 trượng. Trong thành có tới 20 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là
sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại.
Về mặt cai trị, ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh
được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành. Ông đã gây được thiện cảm giữa ông
và dân chúng cho nên được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi
dụng.
Năm Ất Tỵ (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ
tại Tây
Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên) và ưng
thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế ở phương nam.
Thành Đại La
Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu
Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3
đời Đường Hiến Tông (808), Trương
Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới
bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó
Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao
Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67
m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83
m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn, 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho
đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng
(≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo
truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền
đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long
mạch của vùng đất này. Các
di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho
là di tích của bùa yểm này (xem Thánh
vật ở sông Tô Lịch).
Người vợ
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao
Biền có một người vợ là Lã Thị
Nga (Lã Đê nương), theo ông
từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên
ngoài, khu vực ngày nay là quận Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và
trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình
xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
Đền thờ
Bản sách TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học
Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông
các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân – 1572 và Sách Thành Hoàng
Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin
1997 viết: Năm ấy, Vương dẫn quân từ biển Đông Hải vào Giao Châu đánh giặc Nam
Chiếu. Khi hành quân qua Nam Trì thấy bản doanh xưa kia của hai vị Lang Công,
Bảo Công và đền thờ hai ông, lại thấy đất đai có hình thế quý, nhà cửa ở đây
huy hoàng. Đền thờ ở thế đất rất quí Phượng Hoàng Hàm thư biết chắc là thần
linh đền thiêng bèn cho dừng xe, đóng đồn ở đây và trú đêm ở đền. Đêm đến Vương
vào trong điện khấn: “Nay thần tiến binh đánh giặc Nam Chiếu, hai vị linh Thần
có anh linh thì xin phù hộ giúp quốc gia, tiễu trừ quân giặc. Sau này thành
công hẳn được bao khen, sắc phong cúng tế, xin quân thần sau này một chốn, cùng
phối hưởng lâu dài, há phải dài dòng, khấn cầu từ hay ý đẹp”. Nửa đêm, Vương
chiêm bao thấy hai vị tướng đường đường, đầu đội mũ trăm sao mặc xán lạn, long
bào giáp ngọc huy hoàng. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu
đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Vương bèn hỏi: “Ngài là danh
tướng nào vậy” Một vị xưng: “Thần gốc là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng:
“Thần gốc là Trung lang Tế thế, đều là đại thần, tướng nhà Triệu thời xưa, nay
thấy vương đem quân đi đánh giặc, chúng ta tình nguyện theo vương đánh giặc, âm
phù tả hữu giúp cho vương thắng giặc, xin vương chấp thuận”. Thần vừa dứt lời
thì Vương tỉnh giấc, biết là kỳ mộng báo trước sẽ thỏa nguyện công thành. Hôm
sau, ngày 10/3 nhân dân Nam Trì hành lễ chúc mừng. Vương bèn truyền cho phụ lão
Nam Trì: “Ta phụng mệnh Đường vương nhậm chức Đô hộ nước Nam. Nay giặc Nam
Chiếu xuất sư dấy binh xâm phạm, vì thế ta tiến quân qua đây. Ngắm nơi đây thấy
địa thế quan kỳ, có thế đất rất quí. Đền thờ được dựng chính giữa khu có thế
Phượng Hoàng hàm thư nên nhân dân nhất định giàu có, phát nhiều công hầu”. Rồi
cho dựng hành cung ở khu Ngọc Khê.
Tại trang Nam Trì có gia đình Phạm tên húy của ông là Tố,
lấy vợ người gốc Nam Trì là Trần Thị Phương ở Ngọc Khê. Năm bà Trần Thị 21 tuổi
nằm mộng vào chùa Hương Tích gặp Phật Bà Quan Âm hiện lên cho một cặp nhẫn vàng.
Rồi bà có mang. Đến rằm tháng hai (15/2) năm Bính Thìn đẻ sinh đôi hai cô con
gái. Khi đẻ hai nàng tố nữ, có con công ngũ sắc múa lượn trước sân nhà, hương
thơm toả ra thơm nức. Lớn lên hai cô xinh đẹp tựa Hằng Nga, thể diện bồng đảo,
nét mặt vui tươi như trăm hoa đua nở, mắt sáng long lanh tựa ngọc. Đến khi được
hai tuổi cha mẹ đặt tên cô thứ nhất là A Lữ và cô thứ hai là Lự nương. Hai chị
em trưởng thành thì tam tòng tứ đức nữ công bách hạnh, tam tòng tứ đức đủ đầy,
công dung ngôn hạnh, tài giỏi hơn người. Ca kịch, thư họa, múa hát thanh sắc
đều tuyệt vời. Năm 21 tuổi, khi Vương đang đang dựng hành cung, hai cô đến xem.
Nhác trông thấy hai chị em có vẻ mặt yêu kiều lộng lẫy hơn người, Vương nghĩ
đây là người thỏa nguyện toại lòng đây. Rồi Vương cho triệu vợ chồng họ Phạm
đến bàn chuyện cưới hỏi. Ông bà đồng ý gả hai cô cho Vương. Vương cho mang bốn
trăm thoi vàng dẫn cưới, cho dựng cung nương lưu tồn tồn đến đời sau gọi là
hành cung Ngọc Khê. Năm ấy là năm Ất Dậu (865), Giám quận Lý Duy Chu ganh ghét,
không hiệp đồng, lại có âm mưu hãm hại Vương. Với năm nghìn quân tiên phong và
bảy nghìn quân tăng cường của tướng Vi Trọng Tể, Vương vẫn tiến quân thẳng đánh
Nam Chiếu. Khi giao chiến, trời đột nhiên tối sầm, sấm sét nổi lên dữ dội, hai
vị thần Bảo Công, Lang Công hiện về, hỗ trợ hai bên tả hữu làm cho quân giặc
chạy toán loạn, Chỉ một trận lớn, Cao Vương đã dẹp tan quân Nam Chiếu, lấy lại
được Giao Châu. Dẹp yên được giặc, ngày 10/7 Vương trở lại hành cung Ngọc Khê.
Dân làng hành lễ chào mừng tại trụ sở hội đồng nơi thờ phụng hai vị thần Lang
Công, Bảo Công. Vương lại truyền rằng: “Cùng tại nơi phát lộ đền chính thờ hai
vị Thần này, ta cũng hai vị quân thần mở hội lễ mừng vạn năm không thay đổi.
Một lần nữa ta xin nói, ta phụng mệnh vua Đường làm Đô hộ nước Nam. Vừa qua
giặc Nam Chiếu xâm phạm, làm cho nhân dân lầm than khổ cực. Ta mang quân đi
tiễu trừ quân giặc qua nơi đây thấy thế đất cực quý, Thần thờ trong đền rất
linh thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị linh Thần hiện lên xin tòng chinh hộ
quốc. Ta có một nguyện ước cùng duyên phối hưởng như anh em chí tình. Tuy âm
dương hai ngả nhưng chung một nguyên khí; tuy Nam Bắc hai phương nhưng đều
chung một Trời nghĩa khí. Nên nay ta có ước nguyện làm anh em với hai vị quân
thần, cùng xứng đáng hương hỏa vạn năm. Vì vậy, ta tuyên bố nước Nam sẽ lưu
danh thơm bất hủ vạn năm”. Nói xong Vương ban vàng ngọc cho dân làng làm công
quĩ. Sau cho tu sửa đền thờ và xây thêm Vọng cung làm chỗ tế lễ hai vị Thần. Tế
lễ xong, Vương rước hai phu nhân về Tĩnh Hải vương phủ.
Sau Vương cho xây đồn ải ở biên thuỳ, chỉnh đốn việc
công, đặt sổ sưu thuế thu cho việc công đầu tiên ở Giao Châu, đặt ra phép tắc;
trị thủy sông ngòi xây dựng hải cảng để thông thương các nước, thương mại giao
lưu… Thời kỳ Cao Vương trị nhậm, thiên hạ thái bình, nhân dân an cư, lạc
nghiệp, phú túc; mọi người kính phục nên gọi Cao Vương. Làm Tiết độ sứ Giao
Châu 9 năm, Hoàng đế nhà Đường triệu Cao vương về Bắc quốc cử làm quan Thái thú
kinh Bình Châu quốc được 10 năm. Vương hoá ngày 10/8 năm Quý Tỵ (năm 887?). Tại
nước Nam, nhớ ơn công lao to lớn của Vương, nhiều nơi đã lập đền thờ Vương.
Sau triều đại sau đều phong Cao Vương là Quốc vương Thiên
tử, Bảo Công (Tể tướng Lữ Gia) là Trung Thiên Bảo quốc, Lang Công (Tướng
Nguyễn Danh Lang) là Trung lang Tế thế. Các triều đại ba vị Thần đều giúp
dân giúp nước hiển linh ứng báo nên đều được sắc phong mỹ tự, duệ hiệu Thượng
đẳng Phúc thần. Nhà Lê sắc phong ba vị là Tá trị Hựu Thánh, Cương trực hiển
Thánh và Dũng lược Quả đoán; chuẩn cho Nam Trì lập đền chính phụng thờ ba vị,
định kỳ cúng tế bốn vị Thần vào các ngày sinh, ngày hóa và các ngày Khánh hạ
gồm chữ húy, quần áo, thờ phụng.
Còn về hai vị phu nhân, sau khi Vương về Bắc quốc thì về
quê dựng chùa nhỏ xuất gia, đi tu và bỏ tiền ra mua ruộng đất làm tự điền để
sống. Đến ngày 15/11 hai bà làm lễ Phật rồi hoá. Dân làng an táng hai bà tại
phía tây hành cung và lập miếu thờ tại khu Bảo Tàng (nay là đất Nam Trì).
Sự tích đền Bạch Mã
Chuyện kể rằng Cao Biền đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều
bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi
ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa
chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị
thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một
hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối
tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng,
bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm
ấy thấy thần báo mộng rằng: Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành
nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió
sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan
thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần
là thần Long Đỗ.
Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long.
Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến
cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi
ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối
cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì
thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua
đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng
Thần
5.
Lăng
mộ nhà Minh:
Tư Lăng (nhà
Minh)
Tư Lăng là nơi
an táng Minh Tư Tông (hay Sùng Trinh) – vua thứ 16 và cuối cùng của nhà Minh cùng 2
người vợ ông là Chu hoàng hậu và Điền quý phi.
Tư lăng nằm ở chân núi phía nam núi Lộc Mã, núi Thiên Thọ
thuộc phía tây nam khu lăng mộ, thuộc huyện Xương Bình, thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc.
Sùng Trinh tìm đất xây
lăng
Các vua chúa khi lên ngôi đều chọn đất và xây cất sẵn
lăng mộ cho mình khi còn sống để làm nơi yên nghỉ khi qua đời. Nhưng vua Sùng
Trinh đương thời chưa kịp xây cất lăng mộ cho mình khi còn sống.
Ngay từ khi lên ngôi (năm 1628), Sùng
Trinh đã sai người tìm đất tốt ở núi Thiên Thọ, nhưng không tìm được đất tốt.
Năm 1640 vua Sùng Trinh triệu Thành Ý bá Lưu Khổng Chiêu và Chân nhân Trương
Giáp đến cùng xem khu đất mới tìm được tại núi Phụng Đài ở Kế châu. Hai người
xem và cho rằng vùng đất này đẹp nhưng việc khởi công vào thời điểm đó chưa
tốt, phải đợi sang năm Sùng Trinh thứ 17 (1644) mới
khởi công được. Tới năm 1644 xảy ra chiến loạn, quân Lý Tự Thành đánh vào Bắc
Kinh. Do đó, tới tận khi Sùng Trinh qua đời, lăng mộ mà ông dự định chọn vẫn
chưa được khởi công.
Đề nghị của Lý Quốc
Trinh
Tháng 3 năm 1644, quân
khởi nghĩa Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh. Minh
Tư Tông biết không thể thoát được bèn giết chết các hậu phi, công chúa và lên
núi Môi Sơn tự vẫn vào ngày 19 tháng 3.
Lý Tự Thành tiến vào thành Bắc Kinh treo thưởng 1 vạn
lạng bạc cho ai tìm được Sùng Trinh. Ngày 21 tháng 3, người ta phát hiện ra vua
Sùng Trinh chết đã cứng tại Môi Sơn.
Ngày hôm sau, quân Đại Thuận mang quan tài, dựng thi thể
Sùng Trinh và Chu hoàng hậu ra ngoài đặt ở cửa Đông Hoa để bêu trước dân chúng.
Các quan lại nhà Minh không ai dám lại nhìn, chỉ có Tương Thành bá Lý Quốc
Trinh bôi bùn lên mặt đến trước xác Sùng Trinh mà khóc. Lý Quốc Trinh bị quân
Đại Thuận bắt đến nộp cho Lý Tự Thành. Tự Thành dụ hàng, Quốc Trinh ra 3 điều
kiện:
Không được phá hoại các lăng tẩm vua nhà Minh
Dùng nghi lễ thiên tử mai táng Sùng Trinh
Không làm hại thái tử và Vĩnh vương, Định vương
Lý Tự Thành chấp nhận cả 3 điều kiện. Nhưng lúc đó lăng
mộ Sùng Trinh vẫn chưa khởi công, vì vậy Lý Tự Thành quyết định mang Sùng Trinh
và Chu hoàng hậu chôn vào khu mộ chung với Điền quý phi, người vợ thứ của ông
đã qua đời năm 1642.
Táng vào mộ Điền quý phi
Điền quý phi là con gái Tả đô đốc Điền Hoằng Ngộ, năm 1628 được
phong làm Lễ phi rồi hoàng quý phi. Bà sinh được 4 hoàng tử. Năm 1640 hoàng
tử thứ 5 ốm chết, bà buồn sinh bệnh và qua đời tháng 7 năm 1642 và
được vua Sùng Trinh táng tại phía nam núi Lộc Mã vào tháng giêng năm 1644.
Khu mộ của Điền quý phi
do Tả thị lang bộ Công là Trần Tất Khiêm phụ trách xây dựng, nhưng công việc chưa tiến hành xong thì nhà Minh
đã sụp đổ tháng 3 âm lịch năm đó.
Ngày 25 tháng 3, quan phủ Thuận Thiên của chính quyền Đại Thuận là Lý Phiếu theo lệnh Lý Tự Thành khai quật mộ
Điền quý phi để hợp táng thêm vua Sùng Trinh và Chu hoàng hậu. Lý Phiếu
giao cho quan ở Châu Xương Bình là Triệu Nhất Quế tuyển phu để đào mộ. Lúc đó
chọn ngày 3 tháng 4 khiêng linh cữu ra, ngày 4 tháng 4 chôn cất. Nhưng khi đó
ngân khố ở Châu Xương Bình đã hết mà việc mai táng lại gấp nên Triệu Nhất Quế
phải tổ chức quyên góp và quyên được 233 lượng bạc.
Hầm mộ Điền quý phi dài 13 trượng 5 thước, đào 4 ngày đêm
mới đến cửa địa cung. Chiều ngày thứ 4, chính quyền Đại Thuận mang thi hài Chu
Do Kiểm và Chu hoàng hậu đến đặt ở linh đường. Sau khi làm lễ phúng viếng xong
thì mở quách Điền quý phi, chuyển quan tài sang bên phải giường đá, đưa quan
tài Sùng Trinh vào trong, đặt vào giữa giường đá. Sau khi bày hương án và đồ lễ
xong, thắp đèn vạn niên, đóng 2 tầng cửa đá, lấp bằng hầm mộ.
Xây Tư lăng
Việc an táng vua Sùng Trinh và Chu hoàng hậu được chính
quyền Đại Thuận thực hiện không lâu sau thì quân Thanh tiến
vào trung nguyên, đánh bại lực lượng chính quyền Đại Thuận rồi diệt nốt nhà Nam Minh (tàn
dư nhà Minh ở phía nam), cai trị toàn bộ Trung Quốc.
Để lấy lòng người Hán, lôi kéo tầng lớp địa chủ Hán ủng hộ chính quyền mới, nhà Thanh đã
quyết định cho xây dựng kiến trúc trên phần mộ Điền quý phi, nâng cấp lên thành
lăng tẩm quy mô to lớn, đặt tên là Tư lăng.
Việc tiến triển xây dựng Tư lăng khá chậm. Nguyên nhân
thứ nhất do thiếu kinh phí. Nguyên nhân thứ hai là nhân sự. Công việc vốn do bộ
Công phụ trách, nhưng bộ Công thiếu người nên không phân công được. Nội giám
giao cho 3 người Nhiễm Duy Triệu, Cao Thôi và Vương Ứng Sinh trông coi việc xây
cất nhưng đây là lăng mộ vua triều trước, không sợ bị phạt nên tiến độ chậm
trễ.
Sau khi có đủ kinh phí, việc xây dựng được tiến hành. Đến
tháng 9 năm Thuận Trị thứ 2 (1645), việc xây dựng mới hoàn thành.
Tu bổ
Tháng 8 năm 1654, học
giả nổi tiếng đời Thanh là Đàm Thiên Tăng tới thăm viếng Tư lăng. Năm 1659, Tư
lăng lại có thay đổi. Vốn khi xây, bia mộ ghi miếu hiệu là Hoài Tông, nhưng
theo lễ thì triều vua sau đối với vua triều trước không đặt miếu hiệu mà chỉ
đặt thụy hiệu, nên chỉ đặt thụy hiệu cho Sùng Trinh là Trang Liệt Mẫn
hoàng đế và thay bia “Hoài Tông” bằng bia “Trang Liệt Mẫn hoàng đế”.
Thời Thanh Cao Tông (Càn Long), Tư lăng được tu sửa 2 lần và có nhiều thay đổi. Năm 1745, Tả
thị lang Tiền Trần Quần đi tế ở Tư lăng, phát hiện thấy một số nơi bị sụt lở
bèn tâu xin Càn Long cho sang sửa. Càn Long chấp thuận, giao cho Tổng đốc Trực
Lệ là Na Tô Đồ thực hiện trùng tu.
Dù được triều đình nhà Thanh chính thức đặt tên là Tư
lăng nhưng một số phần tử trí thức còn nhớ nhà Minh vẫn cự tuyệt gọi đây là
“lăng” mà gọi là “Toản cung” và coi đó là cái nhục của nhà Minh chưa được rửa
sạch.
Qua biến cố lịch sử
Năm 1911, nhà Thanh sụp
đổ, quân phiệt hỗn chiến liên miên. Sau đó Nhật Bản vào
chiếm đóng vùng đông bắc. Tư lăng nhiều lần bị chiến tranh tàn phá nghiêm
trọng.
Quân thổ phỉ địa phương đã 2 lần đào trộm và phá lăng mộ.
Năm 1947, để
xây dựng pháo đài, quân đội Quốc dân Đảng đã phá hoại phần lớn kiến trúc bề mặt khu lăng. Năm 1949, Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ra
đời, Tư lăng là nơi hoang tàn vắng lặng, chỉ còn lại di chỉ đền đài, bia đá, đồ
thờ chạm đá.
6.
Lăng
mộ nhà Nguyễn:
Hệ thống lăng tẩm ở Huế gắn liền với sự thăng trầm của chiếc ngai
vàng triều Nguyễn (1802 - 1945). Trải qua 13 đời vua, nhưng vì những lý do lịch
sử phức tạp mà hiện còn 7 khu lăng tẩm theo thứ tự: Lăng Gia Long (Thiên Thụ
Lăng), Minh Mạng (Hiếu Lăng), Thiệu Trị (Xương Lăng), Tự Đức (Khiêm Lăng), Dục
Đức (An Lăng), Đồng Khánh (Tư Lăng) và Khải Định (Ứng Lăng). Nếu đứng từ vị trí
trung tâm của Cố đô, 7 khu lăng này đều nằm về hướng tây của kinh thành Huế, đó
là biểu tượng "Thái dương tây hạ" (Mặt Trời lặn phía Tây) - chỉ việc
băng hà của đấng Chí tôn.
Theo quan niệm xưa "Thứ nhất dương cơ, thứ hai âm phần",
việc xây cất quan trọng sau cung điện là lăng mộ. Từ thời Lý về trước, lăng mộ
các vua rất đơn giản, nay chỉ còn dấu vết ít ỏi. Từ đời Trần, Lê về sau, mỗi
vua có một lăng riêng, nhưng tẩm thờ thì chung. Đến thời Nguyễn, các vua mới có
lăng tẩm mộ to thờ riêng từng người.
Thuật phong thủy là yếu tố phải tuân thủ triệt để trong kiến trúc
lăng tẩm Huế. Với quan niệm "Tức vị trị lăng", ngay khi tại vị, vua
đã cho tiến hành khảo sát địa thế, lập đồ án xây dựng lăng tẩm cho mình. Các
quan ở Khâm Thiên Giám, bộ Lễ, bộ Công đi tìm cuộc đất, ngày khởi công, trình
đồ án kiến trúc cho vua ngự duyệt.
Các thầy địa lý nổi tiếng nhất phải mất hàng tháng hoặc hàng năm trời
dò tìm long mạch để có địa cuộc đại cát hội đủ các yếu tố minh đường huyền
thủy, tiền án hậu chẩm, sơn triều thuỷ tụ, tả thanh long hữu bạch hổ... Huyền
cung (nơi đặt quan tài) phải đúng long mạch. Ngoài sông, núi, khe, hồ của tự
nhiên là lầu, đài, đình, tạ hoặc đắp thêm núi đất làm án, chẩm; hoặc đào thêm
hào, khe làm huyền thủy... hình thành nên những tòa lăng tẩm với kiến trúc độc
đáo, cảnh quan hài hoà, hùng vĩ mà thơ mộng. Hầu hết các lăng đều nằm trên
những đồi cỏ mượt với ngút thông xanh, cổ thụ sum suê toả bóng xuống mặt hồ
lặng biếc.
Nhìn bao quát không gian lớn mới thấy hết vẻ hoành tráng của lăng
và mối liên hệ với những thực thể địa lý xa đến hàng chục cây số. Lăng Gia Long
có diện tích hơn 20ha, nằm trên núi Thiên Thụ, có núi án là Đại Thiên Thụ, xung
quanh có 36 ngọn núi chầu vào. Lăng này do thầy phong thủy Lê Duy Thanh, là con
của nhà bác học Lê Quý Đôn, tìm ra địa cuộc. Vua Gia Long đích thân cưỡi voi đi
khảo sát trước khi chuẩn y.
Lăng Minh Mạng rộng 15ha, nằm trên núi Cẩm Kê (Hiếu Sơn), có núi
Kim Phụng chầu, toàn lăng như một người nằm gối lên đồi cao, chân tay duỗi ra
phía ngã ba sông. Quan Lê Văn Đức tìm ra đất này được vua thăng hai cấp.
Lăng Thiệu Trị nằm trên núi Thuận Đạo, rộng 6ha, theo phong thủy
là thế "sơn chỉ thủy giao"(núi dừng, nước giao). Phía trước có đồi
Vọng Cảnh chầu bên phải, núi Ngọc Trản chầu bên trái thành thế "tả thanh
long, hữu bạch hổ". Trước lăng khoảng 9km có núi Chằm làm tiền án, phía
sau có núi Kim Ngọc làm hậu chẩm.
Sống gửi thác về
Khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính là lăng và tẩm. Lăng
là nơi an táng thi hài vua, tẩm là hành cung nơi vua làm việc, sinh hoạt, giải
trí kiến trúc mô phỏng như hoàng cung. Vua thỉnh thoảng ngự giá đến đây để tiêu
khiển, ngắm cảnh, làm thơ, nhìn ngắm sinh phần của mình mà ý thức rằng cõi trần
tạm bợ, đời người chóng qua như giấc mộng: "Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà
ghê/Sống gửi rồi ra lại thác về/Khôn dại cùng chung ba tấc đất/Giàu sang chưa
chín một nồi kê..."(Ngẫm sự đời - Vua Tự Đức).
Với quan niệm "Sống gửi thác về", lăng tẩm là hoàng cung
vĩnh hằng của các vị vua. Vì thế, trong hầu hết các lăng tẩm đều trang trí vô
số hoa văn các chữ "thọ", "hỷ", hình ảnh sông núi thân
quen, những bức họa sinh động để không có cảm giác chết chóc, nặng nề.
Lăng được kiến trúc từ thấp lên cao. Ngoài cùng là thành bao bọc,
có hồ thả sen, bờ hồ trồng sứ, cây cảnh. Cổng chính là đến một sân gạch rộng,
hai bên sân có đúc tượng người, voi, ngựa bằng đá. Trên cuối sân là Bái đình để
các quan làm lễ khi tế tự. Tiếp đó là Bi đình (nhà bia) là toà nhà nhỏ có một
tấm bia lớn trên bệ đá cao gọi là bia Thánh đức thần công. Trong bia khắc bài
ký ghi nhớ công đức của vua.
Sau lưng Bi đình là hai trụ hoa biểu (trụ dẫn linh hồn) cao vút.
Qua Bi đình là tẩm điện, thờ thần vị của hoàng đế và hoàng hậu, bên ngoài bày
những đồ ngự dụng lúc sinh thời. Phía trong Tẩm điện và hai bên có hai dãy nhà
lớn gọi là Tả hữu tùng viện để các bà phi và kẻ hầu ở. Theo nhà nghiên cứu Phan
Văn Dật thì đến năm 1901, tức 14 năm sau khi vua Dực Tông băng hà, còn có 47 bà
phi sống trong Khiêm Lăng.
Lăng tẩm ngày nay vắng bóng cung nga, khói hương tàn lạnh, tường
xanh rêu phủ, nhưng dường như trong không gian se sắt ấy phảng phất bóng u linh
rì rào trên ngọn thông, khối đá khiến lòng người chùng xuống. Cảnh sắc ấy thật
u uẩn mà cũng thật thi vị, như thi sĩ Bích Lan từng viết: Kìa núi Ngự sông
Hương cùng lăng tẩm/Vẫn âm thầm chờ đón các thi nhân...
7.
Khu
Đá Chông
Đá Chông có diện tích 234 ha nằm
trên quả đồi lớn gọi là U Rồng trong dãy núi Tản Viên, giáp địa giới hành chính
của ba xã Minh Quang, Ba Trại, Thuần Mỹ và huyện Ba Vì , tỉnh Hà Tây.
Xưa kia, đây là khu đồi thông yên
tĩnh, xen kẽ với các loài cây gỗ lớn, lá rộng, tạo thành khu rừng nguyên sinh
đầy sức quyến rũ. Trên đồi có những tảng đá đứng lô nhô, sắc nhọn như những mũi
chông lớn nên gọi là Đá Chông. Truyền thuyết kể lại rằng đây là bãi chông chà,
dấu tích của những trận chiến dữ dội giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh thời tiền sử.
Địa danh này có một đặc điểm rất kỳ lạ là Sông Đà qua Lai Châu về Hòa Bình chảy
xuôi qua đằng Khê Thượng, đến đây đột ngột chuyển dòng ngược về hướng Bắc, tạo
thành một khúc gầy, đến ngã ba Bạch Hạc (Việt Trì) gặp sông Hồng, gông Thao để
rồi cùng chầu về Đền Hùng, đất Tổ. Trong "Diễn ca Thánh Tản Viên - Sơn
Tinh" có đoạn viết:
Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu
Dịch là:
Các sông đều chảy về Đông
Sông Đà riêng một, ngược dòng Bắc
Lưu
Năm 1957 trong một lần Bác Hồ cùng
các đồng chí quân uỷ Trung ương đi kiểm tra diễn tập của Sư đoàn 308, khi dừng
chân tại địa điểm này, bác thấy phong cảnh ở đây sơn thủy, hữu tình, khí hậu ôn
hòa mát mẻ. Phía đông có dãy núi Tản Viên, có sông Đà liền kề. Phía tây có dãy
núi Thiết Sơn (Lưỡi hái), thế đất có dáng hình “phong thuỷ" lại lợi nhiều
về mặt quân sự, Bác đã quyết định chọn vị trí này là “Khu căn cứ địa" để
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài.
Địa danh Đá Chông còn có tên khác là
K9, K84 (địa danh mật) do Bộ Chính trị và Ban Bí thư quy định. Gần 9 năm làm
việc ở đây (1960 - 1969) Bác đã tiếp hai người khách nước ngoài, đó là anh hùng
phi công vũ trụ Giéc man Titốp (Liên xô) Và phu nhân của Thủ tướng Chính phủ
Trung Quốc Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu. Hai người khách này đã trồng lưu niệm
hai cây Vàng Anh trước ngôi nhà làm việc của Bác. Ngày nay, hai cây Vàng Anh
vẫn tỏa cành xanh biếc như để lại dấu ấn mối tình hữu nghị của hai dân tộc
Trung – Xô với Việt Nam đời đời bền vững.
Năm 1969 Bác Hồ qua đời, khu Đá
Chông lại được chọn là nơi giữ gìn thi hài của Bác những năm kháng chiến chống
Mỹ (Từ ngày 23/12/1969 đến ngày18/7/1975).
Sau khi Tổ quốc thống nhất, Bác Hồ
được về an nghỉ tại Thủ đô Hà Nội (Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh) để nhân dân cả
nước, bạn bè quốc tế về thăm viếng Bác.
8.
Côn
Sơn + Kiếp Bạc:
Khu di tích Côn
Sơn - Kiếp Bạc là một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của
Việt Nam. Quần thể di tích này thuộc địa bàn thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương. Nơi đây gồm quần thể các di tích lịch sử liên quan đến
những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm
lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân
Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự
nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của
dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của
khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc
Ngày 18/6/2010
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 920/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch
tổng thể bảo tồn Khu di tích lịch sử - văn hóa Côn Sơn – Kiếp Bạc gắn với phát
triển du lịch, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Trong dịp Lễ hội mùa thu năm
2012, Khu Di tích lịch sử - văn hóa Côn Sơn - Kiếp Bạc đã được công nhận là di
tích quốc gia đặc biệt.
Chùa Côn Sơn
Chính điện chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn tên chữ là "Thiên Tư Phúc
Tự", nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành. Chùa kiến trúc theo kiểu
chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có
những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ
có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang. Đường vào Tam
quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán
vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng
8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc
thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia.
Chùa nằm dưới
chân núi Côn Sơn. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn
ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn,
núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa "Thiên Tư Phúc Tự" trong
dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun.
Thiền sư Huyền
Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm - một thiền phái mang mầu sắc dân
tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu
phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo
phái không ngừng. Ngày 22 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang
viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây
tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp "Huyền Quang tôn giả".
Chùa Côn Sơn có
từ thời Trần (truyền thuyết cho rằng Chùa có từ thời Đinh), năm Khai Hựu
nguyên niên(1329), được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng
tu này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử
chùa Côn Sơn. Chùa Côn Sơn xưa nay là danh lam cổ tích của đất nước, hiện còn
nhiều dấu tích và cổ vật có giá trị.
Đền Kiếp Bạc
Kiếp Bạc là tên
ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi đây là thung
lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo. Vào thế kỷ 13, đây là nơi
đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ huy
quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Ðền thờ Trần
Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ 14, trên một khu đất ở trung tâm thung lũng
Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Ðạo, phu
nhân, 2 con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và 4 bài vị thờ 4 con trai.
Hàng năm, hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8
âm lịch).
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn - Hải Dương
Đền thờ Nguyễn
Trãi
Đền thờ Nguyễn Trãi được khởi công
xây dựng ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất rộng gần 10.000m2, tại chân núi
Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ
bà Trần thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi. Phía bên phải
là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy
khu Đền.
Đền thờ chính,
hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn Ngoại, Nhà Bia, Am hoá vàng, cầu
vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng gia hạ kiều để lên Thạch
Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước ...
-
Ngôi đền chính tưa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai
dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ
nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là
dãy núi An Lạc đã tạo lên thế núi lớp lớp điệp trùng.
Đền thờ Nguyễn Trãi là công trình
trọng điểm nằm trong quần thể khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, kiến trúc theo
truyền thống và rất độc đáo ; với một nguồn lớn kinh phí cùng với những người
có tâm đức, các Nghệ nhân và những người thợ khéo tay, cần mẫn lao động hơn
2.500 ngày để có được công trình hôm nay, thoả mãn cao nhất nhu cầu du lịch gắn
với lịch sử và tâm linh của các thế hệ mai sau. Tại gian tiền tế của đền Kiếp
Bạc hiện còn trưng bày 2 đoạn xương ống chân voi. tương truyền đây là con voi
chiến của Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn trong khi ra trận bị sa lầy tại
cánh đồng gần tỉnh Thái Bình, mặc dù quân sỹ dốc sức làm mọi cách để cứu voi
khỏi bị sa lầy nhưng vẫn không cứu nổi, Trần Hưng Đạo đành phải bỏ voi lại để
tiếp tục tiến quân ra chiến trường và có chỉ gươm xuống đất thề sẽ quay lại cứu
voi khi thắng trận. Thắng trận trở về đến cánh đồng nơi voi bị sa lầy nhưng con
voi đã chết vì bị chìm lún xuống bùn. Tương truyền 2 ống xương chân voi hiện
đang đặt tại gian tiền tế đền Kiếp Bạc là xương của con voi trung thành của Đức
Thánh Hưng Đạo Đại Vương.
Đền thờ Trần Nguyên Hãn
Đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm trên đền thờ Nguyễn Trãi, cũng ở
ven suối. Trần Nguyên Hãn là đại công thần nhà Lê và là em con cậu ruột của
Nguyễn Trãi.
Đền thờ Trần Nguyên Đán
Nằm ở phía trên
cả đền thờ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, gần thượng nguồn suối Côn Sơn. Trần Nguyên Đán là ông Nguyễn Trãi. Các đền này đều
rất đẹp và hợp thành một quần thể mới hoàn toàn hòa hợp với quần thể chùa Côn
Sơn cũ.
Năm 1385, Trần Nguyên Đán cùng vợ đưa cháu ngoại Nguyễn Trãi về sống tại
Côn Sơn. Ông nuôi dậy Nguyễn Trãi trưởng thành.
Tại Côn Sơn ông cùng vợ trồng rừng thông, bãi giễ và xây dựng quần
thể kiến trúc trong núi. Động Thanh Hư là công trình quy mô, hoành tráng với
nhiều hạng mục kiến trúc hoà với thiên nhiên, trong đó có các nơi "Nghỉ
ngơi, chơi ngắm" là thẳng cảnh tiêu biểu mà từ lâu đã trở thành địa danh,
di tích nổi tiếng, đi vào thi ca sử sách ở nhiều thời đại.
Năm 1390, Quan
Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán tạ thế tại Côn Sơn. Vua Trần nhớ công
đức của ông, sắc chỉ cho nhân dân lập đền, tạc tượng thờ Người tướng quốc tại
Côn Sơn. Trải qua năm tháng Đền thờ xưa không còn.
Năm 2005, tỉnh
Hải Dương xây dựng Đền Thanh Hư trên nền nhà cũ của Ông giữa rừng tùng bách tại
Côn Sơn. Đền Thanh Hư kiên trúc theo chữ Đinh, toà Tiên bái chồng diêm cổ các
hai tầng tám mái uy nghi. Đền tựa núi Ngũ Nhạc, Minh Đường hướng đông nam, hồ
Côn Sơn nơi tụ phong, tụ thuỷ ; núi An Lạc làm Tiền Án, dãy An Sinh thế long
chầu. Trong Đền hệ thống hoành phi, câu đối, đồ thờ bài trí theo nghi thức
truyền thống. Tượng Quan Đại Tư Đồ thần thái uy nghiêm, nhân từ.
9.
Hà nội:
Văn bản
昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi
Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ.
Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh,
hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú
phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu
chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc,
bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu
vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện
giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi
sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến
lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn
thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng
như hà?
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời
đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô,
há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt
để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính
mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu
dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo
việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận
số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể
không dời.
-
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu
vực trời đất, được thế rồng chầu
hổ phục, chính
giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà
bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn
vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi
thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô
kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ
thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)
Ý nghĩa
Có ý kiến cho
rằng chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô
mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu
nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia. Thời gian sau
đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là
“nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là
sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là
nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Việc xuất hiện
bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên
tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời
khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Hành trình dời đô
Hơn 1 năm sau
khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 7 năm Canh Tuất, Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc tìm đất,
nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo
đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng
đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: nhà Lý dời đô bằng
đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ
máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.
Năm Thái Bình thứ 7 (976)
dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng đã có việc buôn bán với nước ngoài
bằng thuyền. Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Công Uẩn dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi
theo. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đoàn thuyền
ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
-
Như vậy hành trình dời đô đi qua 6 con sông khác nhau,
trong đó các hành trình trên sông Sào Khê, sông Hoàng Long, sông Châu Giang là đi xuôi dòng, trên sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch là đi ngược dòng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường
sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải
nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển.
Từ Hoa Lư tới Thăng Long
Khác với các
kinh đô chính thống khác ở Việt Nam, kinh đô Hoa Lư có một vai trò lịch sử đặc biệt: là
nơi đánh dấu sự ra đời kinh thành Thăng Long - Hà Nội, thủ đô hiện tại của đất
nước Việt Nam. Mốc son Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
mà bằng chứng là chiếu dời đô được xác định là thời điểm khai sinh lịch sử thủ
đô mặc dù với việc mở rộng diện tích phần lớn các vùng đất đế đô của Việt Nam
có trước Hoa Lư như Mê Linh (Hai Bà Trưng), Long Biên (nhà Tiền Lý), Cổ Loa (nhà Ngô) nay đều thuộc
về Hà Nội.
Hoa Lư gắn liền với
sự nghiệp của 2 vua đầu triều đại nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ được triều đình Hoa Lư tiến cử lên ngôi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống chính trị và cơ sở
vật chất của kinh thành Thăng Long sau này đều thừa hưởng từ kinh đô Hoa Lư trước đó. Để tưởng niệm công lao đặt
nền móng xây dựng độc lập tự chủ của đất nước và nhớ đến Cố đô Hoa Lư, nhà Lý
đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc giống ở Hoa Lư tại khu vực ở Thăng Long
mà chúng vẫn tồn tại đến tận nay như: Ô Cầu Dền, phố Tràng Tiền, phố Cầu Đông, chùa Một Cột, ngã ba Bồ Đề, cống Trẹm, tháp Báo
Thiên, phố Đình Ngang... Sách Đại Nam nhất thống chí quyển XIV tỉnh Ninh Bình,
mục cổ tích chép: “Đô cũ nhà Đinh, nhà Lê ở xã Trường Yên Thượng và Trường Yên
Hạ về phía tây bắc huyện Gia Viễn, có nội thành và ngoại thành, có cửa xây bằng
đá, lại có các danh hiệu: cầu Đông, cầu Dền, cầu Muống, Tràng Tiền, chùa Tháp,
chùa Nhất Trụ, . . . nền cũ vẫn còn. Về sau Lý Thái Tổ dời đô đến Thăng Long
đều dùng theo các danh hiệu ấy...”.
Phố Cầu Đông ở Hoa Lư, nơi có nhà
thầy bói và chợ Cầu Đông
|
Chùa Một Cột ở Thăng Long do Vua Lý Thái Tông cho xây dựng
|
Phố Cầu Đông ở Thăng Long nay chỉ
còn chợ Đồng Xuân
|
Chùa Bà Ngô ở Hà Nội được xây dựng
vào thời vua Lý Thần Tông
|
10.
Việt
Nam:
-
Nơi
đền vua Hùng ở Việt Trì chính là nơi hội tụ ba con sông lớn là sông Đà, sông
Lô, sông Thao.
- Cố Đô Huế là nơi hội tụ các con
sông Tả Trạch, Hữu Trạch và sông Hương Giang.
- Còn nơi hội tụ các sông Thu Bồn,
Cổ Cò, sông Trường Giang chính là nơi cha ông đã dựng lên phố cổ Hội An.
- Địa Linh Kiếp Bạc, nơi dựng đền
thờ Đức Thánh Trần, là một Địa Linh hùng vĩ: Sau lưng có núi như ngai vua,
trước mắt là con sông Thuỷ, bên trái có Thanh Long, là một dãy núi mang tên Nam
Tào, bên phải là dãy Bạch Hổ, tức là dãy núi Bắc Đẩu.
Một số thành phố cũng dựng lên dựa
vào Địa Linh, theo công thức Thiên - Địa – Nhân:
Sau có Thánh Địa (Sơn Thiên), ở giữa là thành phố (Nhân) và phía trước có Minh Đường ( Thuỷ - Địa).
Sau có Thánh Địa (Sơn Thiên), ở giữa là thành phố (Nhân) và phía trước có Minh Đường ( Thuỷ - Địa).
- Thăng Long (Hà Nội) đằng sau dựa
vào Đền Hùng, còn đừng trước là Bến Cảng.
- Nay dựa vào Núi Ba (Tản Viên Sơn )
vì nơi có ba con song tụ khí
- Quảng Ninh đằng sau dựa vào dãy
Yên Tử, còn đằng trước là Cảng Cửa Ông.
- Các thành phố An Giang đằng sau
dựa vào dãy Thất sơn, còn đằng trước là Cảng Ốc Eo.
- Việt Nam đằng sau dựa vào dãy
Trường Sơn, đằng trước là Biển Đông. Đó là Địa Linh thuộc quy mô lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét