2006
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, bất cứ một nền kinh tế đang phát triển nào trên thế giới đều rất cần những nguồn vốn khác nhau để phát triển. ODA là một trong những nguồn vốn quan trọng đóng góp cho sự phát triển đó. Ở VN ta, nguồn vốn ODA được đưa vào từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, đã góp phần rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội đất nước, đặc biệt là hệ thống cơ sở hạ tầng như đường quốc lộ 18, hệ thống cầu đường sắt miền Trung, Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại II, cầu Kiền (Hải Phòng), hầm Thủ Thiêm, cầu Thanh Trì... Ngoài việc phát triển kinh tế xã hội, các dự án ODA còn tạo ra đội ngũ rất hùng hậu, từ những người công nhân lao động cho tới kỹ sư, trí thức, có phong cách làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế, tác phong công nghiệp, thu nhập cao. Điều đó khó mà có được từ các dự án trong nước hay từ các giảng đường đại học. Qua 20 năm đổi mới và sau thời gian làm việc trực tiếp với các tập đoàn nước ngoài, đội ngũ ấy đã có được những bài học kinh nghiệm về đẳng cấp chất lượng quốc tế cho sản phẩm của mình làm ra và đặc biệt là yếu tố con người đạt đẳng cấp quốc tế. Hàng trăm nghìn con người đó đã được đào tạo, ít thì 6 tháng, nhiều thì 20 năm, sẽ là nguồn lực vô cùng quý giá và hữu ích để đất nước nhanh chóng hội nhập và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nếu được chú ý thích đáng và có một vài tổ chức chức tập hợp họ lại. Để phát triển các tập đoàn Việt Nam, nhất định phải có được những con người như vậy.
Tuy nhiên, việc sử dụng đội ngũ đã kinh qua các dự án quốc tế ở Việt Nam cũng không phải dễ nếu không có những còn người lãnh đạo có đủ trình độ quốc tế và có tâm đức, hết lòng vì đất nước, vì nhân dân, người lãnh đạo phải mẫu mực, gương mẫu. Thực tế cho thấy, các công ty, tập đoàn danh tiếng trên thế giới không thể tồn tại trên cơ sở lừa dối khách hàng, giảm chất lượng sản phẩm. Vì sẽ không có ai tin tưởng và sự sụp đổ là chắc chắn. Do đó, những người lãnh đạo, ngoài yêu cầu xuất sắc về chuyên môn thì đạo đức, trách nhiệm và sự gương mẫu được đặt lên hàng đầu. Nhờ vậy, công ty, tập đoàn của họ phát triển khắp nơi trên thế giới và tạo ra sự phồn thịnh chung cho loài người.
Nếu người lãnh đạo chỉ lo cho bản thân, bòn rút của chung thì lúc đầu sẽ thoả ý muốn của mình và một nhóm người xung quanh, nhưng sau này sản phẩm của họ làm ra không có ích cho mọi người, xã hội thì sự loại bỏ là đương nhiên và uy tín, niềm tin từ đó cũng sẽ mất đi nhanh chóng. Mất đi niềm tin thì không ai sẽ theo mình, không ai tin mình và sản phẩm của mình làm ra sẽ không có ai sử dụng, tự mình sẽ đi vào ngõ cụt. Nhỏ thì một công ty sẽ ra đi, lớn thì cả nền kinh tế của đất nước suy sụp.
Trở lại về vấn đề ODA, nhà tài trợ có muốn cố gắng đầu tư, nhưng nếu gặp phải hệ thống lãnh đạo dự án không đủ tầm kiểm soát, chỉ lo cho lợi ích của bản thân thì hậu quả là đội ngũ công nhân sẽ đói kém do không được chăm lo thoả đáng, đội ngũ trí thức, kỹ sư bị mê hoặc theo thói vô trách nhiệm, ăn chơi sa đoạ của lãnh đạo. Nhà tài trợ, với những con người cụ thể của họ đang ngày ngày tham gia giám sát dự án, cũng bị ép phải làm theo, không thì bị hệ thống lãnh đạo dự án tham lam dùng mọi thủ đoạn trục xuất, làm cho mất việc, mất danh dự và gia đình đói kém.
Tất cả những điều đó đủ tạo ra sự rời rạc, mất tính hệ thống, ai ai cũng chỉ lo cho riêng mình, sự nghiệp chung của xã hội, cái mà các nước đang phát triển rất cần lại bị tuột mất.
Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo tiếp nhận, sử dụng và quản lý các dự án ODA cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi những con người hết sức xuất sắc về chuyên môn, có trách nhiệm với xã hội, gưỡng mẫu, mẫu mực trong lối sống để nhà tài trợ ODA có niềm tin, người công nhân lao động có thêm lương bổng, kỹ sư, trí thức có cái mà noi theo phấn đấu, tính hệ thống, thống nhất được hình thành và phát triển. Khoa học công nghệ chân chính, chất lượng được nhanh chóng tiếp thu, chấp nhận để tiến kịp với quốc tế, đất nước sớm thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn.
Tuy nhiên, việc sử dụng đội ngũ đã kinh qua các dự án quốc tế ở Việt Nam cũng không phải dễ nếu không có những còn người lãnh đạo có đủ trình độ quốc tế và có tâm đức, hết lòng vì đất nước, vì nhân dân, người lãnh đạo phải mẫu mực, gương mẫu. Thực tế cho thấy, các công ty, tập đoàn danh tiếng trên thế giới không thể tồn tại trên cơ sở lừa dối khách hàng, giảm chất lượng sản phẩm. Vì sẽ không có ai tin tưởng và sự sụp đổ là chắc chắn. Do đó, những người lãnh đạo, ngoài yêu cầu xuất sắc về chuyên môn thì đạo đức, trách nhiệm và sự gương mẫu được đặt lên hàng đầu. Nhờ vậy, công ty, tập đoàn của họ phát triển khắp nơi trên thế giới và tạo ra sự phồn thịnh chung cho loài người.
Nếu người lãnh đạo chỉ lo cho bản thân, bòn rút của chung thì lúc đầu sẽ thoả ý muốn của mình và một nhóm người xung quanh, nhưng sau này sản phẩm của họ làm ra không có ích cho mọi người, xã hội thì sự loại bỏ là đương nhiên và uy tín, niềm tin từ đó cũng sẽ mất đi nhanh chóng. Mất đi niềm tin thì không ai sẽ theo mình, không ai tin mình và sản phẩm của mình làm ra sẽ không có ai sử dụng, tự mình sẽ đi vào ngõ cụt. Nhỏ thì một công ty sẽ ra đi, lớn thì cả nền kinh tế của đất nước suy sụp.
Trở lại về vấn đề ODA, nhà tài trợ có muốn cố gắng đầu tư, nhưng nếu gặp phải hệ thống lãnh đạo dự án không đủ tầm kiểm soát, chỉ lo cho lợi ích của bản thân thì hậu quả là đội ngũ công nhân sẽ đói kém do không được chăm lo thoả đáng, đội ngũ trí thức, kỹ sư bị mê hoặc theo thói vô trách nhiệm, ăn chơi sa đoạ của lãnh đạo. Nhà tài trợ, với những con người cụ thể của họ đang ngày ngày tham gia giám sát dự án, cũng bị ép phải làm theo, không thì bị hệ thống lãnh đạo dự án tham lam dùng mọi thủ đoạn trục xuất, làm cho mất việc, mất danh dự và gia đình đói kém.
Tất cả những điều đó đủ tạo ra sự rời rạc, mất tính hệ thống, ai ai cũng chỉ lo cho riêng mình, sự nghiệp chung của xã hội, cái mà các nước đang phát triển rất cần lại bị tuột mất.
Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo tiếp nhận, sử dụng và quản lý các dự án ODA cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi những con người hết sức xuất sắc về chuyên môn, có trách nhiệm với xã hội, gưỡng mẫu, mẫu mực trong lối sống để nhà tài trợ ODA có niềm tin, người công nhân lao động có thêm lương bổng, kỹ sư, trí thức có cái mà noi theo phấn đấu, tính hệ thống, thống nhất được hình thành và phát triển. Khoa học công nghệ chân chính, chất lượng được nhanh chóng tiếp thu, chấp nhận để tiến kịp với quốc tế, đất nước sớm thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét