Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2010

TA LA AI?

TA LÀ AI? (NAN YAR)

Những lời dạy của Bhagavan Sri Ramanna Maharshi

Do Dr. T.M.P.MAHADEVAN dịch
Từ tiếng Tamin gốc

Do V.S. RAMANAN
Chủ tịch, Ban quản trị
SRIAMANASMAM
TIRUVANNAMALAI, S.INDIA
xuất bản





GIỚI THIỆU
"Who am I?" "TA là ai?" is the title given to a set of questions and answers bearing on Self-enquiry. The questions were put to Bhagavan Sri Ramana Maharshi by one Sri M. Sivaprakasam Pillai about the year 1902. là nhan đề một tập hợp các câu hỏi và câu trả lời dựa trên cơ sở tự vấn. Những câu hỏi đã được Ngài M. Sivaprakasam Pillai đặt ra cho Ngài Bhagavan Ramana Maharshi vào khoảng năm 1902. Sri Pillai, a graduate in Philosophy, was at the time employed in the Revenue Department of the South Arcot Collectorate. During his visit to Tiruvannamalai in 1902 on official work, he went to Virupaksha Cave on Arunachala Hill and met the Master there. Ngài Pillai, một cử nhân Triết học, làm việc tại Cục thuế Nam Arcot Collectorate. Trong chuyến thăm và làm việc tại Tiruvannamalai năm 1902, ông đã tới Hang Virupaksha trên đồi Arunachala và gặp gỡ Bậc Thầy ở đó.He sought from him spiritual guidance, and solicited answers to questions relating to Self-enquiry. Ngài tìm kiếm từ Bậc Thầy sự hướng dẫn về tâm linh, và xin các câu trả lời cho các câu hỏi tự vấn. As Bhagavan was not talking then, not because of any vow he had taken, but because he did not have the inclination to talk, he answered the questions put to him by gestures, and when these were not understood, by writing. Bậc thầy Bhagavan đã không dùng ngôn ngữ nói, không phải vì bất kỳ lời nguyền Ngài không có ý định hoặc chưa sẵn sàng, Ngài trả lời những câu hỏi đặt ra bằng cử chỉ, và khi không hiểu, bằng cách viết. As recollected and recorded by Sri Sivaprakasam Pillai, there were fourteen questions with answers to them given by Bhagavan. This record was first published by Sri Pillai in 1923, along with a couple of poems composed by himself relating how Bhagavan's grace operated in his case by dispelling his doubts and by saving him from a crisis in life. 'Who am I?' Ngài Sivaprakasam Pillai đã tập hợp và ghi lại mười bốn câu hỏi với câu trả lời của Ngài Bhagavan. Tài liệu này được Ngài Pillai xuất bản lần đầu tiên vào năm 1923, cùng với một vài bài thơ do chính Ngài sáng tác diễn tả tác động của Bhagavan trong việc xua tan đi những hoài nghi của chính Ngài và cứu giúp Ngài khỏi thời điểm khủng hoảng trong cuộc đời. ‘ TA là ai?' has been published several times subsequently. đã được xuất bản nhiều lần sau đó. We find thirty questions and answers in some editions and twenty-eight in others. Chúng tôi nhận thấy có ba mươi câu hỏi và câu trả lời trong một số ấn bản và 28 trong một số khác.There is also another published version in which the questions are not given, and the teachings are rearranged in the form of an essay. Ngoài ra còn có một phiên bản khác không có câu hỏi và những lời dạy được sắp xếp lại theo hình thức một bài luận. The extant English translation is of this essay. Bản dịch tiếng Anh hiện còn có trong bài luận này. The present rendering is of the text in the form of twenty-eight questions and answers. Bản dịch này là văn bản dưới hình thức 28 câu hỏi và câu trả lời.
Along with Vicharasangraham (Self-Enquiry), Nan Yar (Who am I?) constitutes the first set of instructions in the Master's own words. Cùng với Vicharasangraham (Tự vấn), Nan Yar (TA là ai?) tạo nên bộ tài liệu đầu tiên bao gồm các lời dạy của Bậc Thầy. These two are the only prosepieces among Bhagavan's Works. Đây là hai tài liệu bằng lời duy nhất của Bhagavan. Hai tác phẩm đã trình bày một cách rõ ràng ý trọng tâm của những lời dạy của Thầy về con đường trực tiếp dẫn đến Sự Giải thoát; đó là “Tự vấn”. Cách thức cụ thể để tự vấn được giải thích rõ ràng trong Nan Yar. Tâm trí là tổng hợp các ý nghĩ. Ý nghĩ “Cái Tôi cá nhân” luôn xuất hiện đầu tiên trong Tâm trí mỗi người. Khi sự tự vấn “TA là ai?” được đặt ra một cách liên tục và kiên định, tất cả các suy nghĩ khác sẽ không còn, cuối cùng “Cái Tôi cá nhân” tự biến mất, còn lại duy nhất “Cái TA” tĩnh tại. Việc nhận diện sai lầm Cái TA - cái bản chất với cái không bản chất như Cơ thể và Tâm trí nhờ đó mà chấm dứt; đó chính là sự Khai sáng, Sakshatkara. Quá trình Tự vấn đương nhiên không dễ. Khi tự vấn “TA là ai”, những suy nghĩ khác sẽ xuất hiện; nhưng khi những suy nghĩ này xuất hiện, ta không được phép để chúng dẫn dắt và chi phối, ngược lại ta cần tự vấn “Những suy nghĩ này hướng tới ai?”. Để làm điều này, ta phải luôn tập trung và cẩn trọng. Qua sự Tự vấn liên tục, Tâm trí cần phải được giữ ở lại cội rễ của nó - “Cái TA” - mà không cho phép lơ là và bị lạc theo lớp lớp các ý nghĩ do chính nó (Tâm trí) tạo ra. Tất cả các phương pháp rèn luyện khác như “quán chiếu và quán định hơi thở” hay thiền định theo các dạng thức của các Chúa Trời (Cái TA duy nhất hiện hữu) chỉ nên được xem là phụ trợ. Chúng hữu ích trong việc giúp cho Tâm trí trở nên tĩnh lặng và đạt trạng thái tập-trung-nhất-điểm.
Đối với Tâm trí đã đạt được tới khả năng tập trung, sự Tự vấn trở nên tương đối dễ dàng (hơn).They clearly set forth the central teaching that the direct path to liberation is Self-enquiryCta sẽ không cho tt Chính Tự vấn không ngừng làm triệt tiêu các ý nghĩ và Cái TA đạt-được là Thực tại tuyệt đối, không giới hạn trong đó thậm chí không có cả suy nghĩ về “cái Tôi”, một trạng thái trải nghiệm được gọi tên “Sự Tĩnh Lặng”.
Đó chính là nội dung cốt lõi trong lời dạy của Ngài Bhagavan Ramana Maharshi trong tác phẩm Nan Yar (TA là ai?).


TMP MAHADEVAN
University of Madras Đại học Madras
June 30, 1982 Ngày 30 tháng 6 1982




Om Namo Bhagavathe Sri Ramanaya Om Namo Bhagavathe Sri Ramanaya
TA là ai? - (Nan Yar?)
- (Nan Yar?)
As all living beings desire to be happy always, without misery, as in the case of everyone there is observed supreme love for one's self, and as happiness alone is the cause for love, in order to gain that happiness which is one's nature and which is experienced in the state of deep sleep where there is no mind, one should know one's self.Tất cả chúng sinh ước mong có được hạnh phúc mãi luôn mà không vương khổ đau. Và mỗi chúng ta đều cảm nhận một tình yêu tối thượng đối với chính bản thân Ta; cội nguồn của tình yêu đó chính là Hạnh-Phúc-Thực-sự. Vậy nên, để có được Hạnh phúc đó - tâm cảnh tự nhiên của mỗi người, một tâm cảnh được trải nghiệm trong trạng thái ngủ sâu khi Tâm trí không xuất hiện - ta cần nhận ra chính Ta. Để đạt được điều đó, Con-Đường-Tri-Thức, Tự vấn “TA là ai?”, là phương pháp chính yếu.
1 . Who am I ? 1. TA là ai?
The gross body which is composed of the seven humours (dhatus), I am not; the five cognitive sense organs, viz. Toàn bộ cơ thể do bẩy nguyên tố cấu tạo, TA không phải; năm cơ quan giác quan, thính giác, xúc giác, thị giác, vị giác và khứu giác, tương ứng là cảm giác về âm thanh, sự đụng chạm, màu, vị và mùi không phải là TA; năm chức năng hành động bao gồm lời nói, sự vận động, nhận thức, bài tiết và sinh sản với các họat động tương ứng là nói, chuyển động, nhận thức, đào thải và hưởng thụ, TA không phải; năm luồng khí dưỡng với các vai trò lần lượt trong năm chức năng hít thở prana, vv, TA không phải; thậm chí Tâm trí nhận thức, TA cũng không phải; ngay cả Trạng thái vô thức, khi mà sự vật và chức năng của nó biến mất và chỉ tồn tại những ấn tượng về sự vật đó, TA cũng không phải nốt.
2. If I am none of these, then who am I? 2. Nếu TA không ai trong số này cả, vậy thì TA là ai?
After negating all of the above-mentioned as 'not this', 'not this', that Awareness which alone remains - that I am. Sau khi loại bỏ tất cả các thành phần nêu trên theo cách "không là thứ này, chẳng là cái kia", Nhận thức thuần khiết còn lại - đó chính là TA.
3. What is the nature of Awareness? 3. Bản chất của Giác ngộ là gì?
The nature of Awareness is existence-consciousness-bliss Bản chất của Giác ngộ là “Tồn tại- Ý thức- Hạnh phúc”.
4. When will the realization of the Self be gained? 4. Khi nào ta chính là TA
[1]?
When the world which is what-is-seen has been removed, there will be realization of the Self which is the seer. Khi vạn vật, những gì-được-nhìn-thấy, biến mất, ta sẽ là TA.
5. Will there not be realization of the Self even while the world is there (taken as real)? 5. Có chăng đạt được sự Giác ngộ đồng thời chiêm nghiệm vạn vật hiện hữu như là thực tại?
There will not be. Sẽ không có.
6. Why? 6. Tại sao?
TA (The seer and the object seen are like the rope and the snake.((người nhận thấy) và vạn vật (đối tượng thấy) giống như chiếc dây thừng và con rắn. Nhận thức đúng về chiếc dây thừng chỉ có được khi mà sự lầm tưởng về con rắn (là cái dây thừng) được gỡ bỏ. Cũng vậy, nhận thức bản chất về Cái TA sẽ không có được nếu như vạn vật hiện hữu vẫn được tin là thực tại.
7. When will the world which is the object seen be removed? 7. Khi nào vạn vật, đối tượng được nhận thức, biến mất?
When the mind, which is the cause of all cognition's and of all actions, becomes quiescent, the world will disappear. Khi Tâm trí, nguồn gốc của tất cả mọi sự nhận thức và hành động, trở nên tĩnh lặng, vạn vật sẽ biến mất.
8. What is the nature of the mind? 8. Bản chất của Tâm trí là gì?
Cái được gọi là “Tâm trí” là một sức mạnh kỳ diệu của TA. It causes all thoughts to arise. Nó là cội gốc của mọi ý nghĩ. Apart from thoughts, there is no such thing as mind. Ngoài ý nghĩ, không có gì tương tự tồn tại trong Tâm trí. Vì thế, ý nghĩ là bản chất của Tâm trí. Ngoài ý nghĩ, không có thực thể độc lập nào được gọi tên là vạn vật. Therefore, thought is the nature of mind.
9. What is the path of inquiry for understanding the nature of the mind? 9. Cách Tự vấn để hiểu được bản chất của Tâm trí?
“Cái Tôi cá nhân” xuất hiện trong thể xác chính là Tâm trí. Nếu ta đặt câu hỏi ở nơi đâu trong thể xác ý nghĩ “Cái Tôi cá nhân” xuất hiện đầu tiên, ta sẽ khám phá ra rằng nó xuất hiện đầu tiên trong Tâm ta. Đó là nơi bắt nguồn của Tâm trí. Nếu ta không ngừng nghỉ nghĩ về “ Cái Tôi cá nhân”, ta sẽ được dẫn dắt tới nơi đó. Trong tất cả các ý nghĩ xuất hiện từ Tâm trí, ý nghĩ “Cái Tôi cá nhân” là đầu tiên. Chỉ sau khi ý nghĩ “Cái Tôi cá nhân” này xuất hiện, những ý nghĩ khác mới xuất hiện. Cũng như sau khi đại từ Ngôi thứ nhất xuất hiện, các đại từThat which rises as 'I' in this body is the mind. Ngôi thứ hai và thứ ba mới xuất hiện; nếu không có đại từ Ngôi thứ nhất sẽ không có đại từ ngôi thứ hai và thứ ba.
10. Làm thế nào để Tâm trí trở nên tĩnh lặng?
Bằng tự vấn “Ta là ai?”, suy nghĩ “Ta là ai” sẽ làm tiêu biến các ý nghĩ, suy nghĩ khác, và giống như một que củi cời cho ngọn lửa cháy, suy nghĩ “Ta là ai” này cuối cùng cũng sẽ tự biến mất. Sau đó, sẽ xuất hiện sự Tự-Giác-Ngộ.
11. What is the means for constantly holding on to the thought 'Who am I?' 11. Làm cách nào để có thể giữ suy nghĩ “Ta là ai?” được liên tục?
When other thoughts arise, one should not pursue them, but should inquire: 'To whom do they arise?' Khi các ý nghĩ khác xuất hiện, ta không nên theo chúng, mà tự hỏi: “Chúng xuất hiện hướng tới ai?” Bất kể có bao nhiêu ý nghĩ xuất hiện đi nữa. Khi mỗi ý nghĩ xuất hiện, ta nên tự vấn “Ý nghĩ này xuất hiện là hướng tới ai?”. Câu trả lời có thể là “Tới Ta”. Do đó nếu ta tự vấn “Ta là ai?”, Tâm trí sẽ quay trở về với cội gốc của nó và ý nghĩ nổi lên sẽ trở nên bình lặng. Cứ luyện tập liên tục theo cách này, Tâm trí sẽ phát triển kỹ-năng-trở-lại-cội-gốc của nó (Tâm). Khi Tâm trí nhạy cảm hướng ngoại và khai triển trong não và các cơ quan cảm giác, vạn vật ( tên và các hình dạng) xuất hiện; khi Tâm trí ngự trong Tâm ta, vạn vật (tên và hình dạng) biến mất. Không để cho tâm trí rời khỏi mà giữ nó lại trong “Tâm ta” gọi là “nội hiện” (antar-mukha). Để Tâm trí rời khỏi Tâm gọi là “ngoại hiện” (bahir-mukha). Vì thế, khi Tâm trí (ở) tại Tâm
[2], “Cái Tôi cá nhân” - cội nguồn của mọi ý nghĩ - sẽ tan biến, và Cái-TA-vĩnh-hằng sẽ tỏa sáng. Dù có làm gì, ta cần hành động không với động cơ “cái Tôi cá nhân”. Hành động như thế, mọi sự (liên quan đến hành động) sẽ xuất hiện như bản chất của Siva[3].
12. Are there no other means for making the mind quiescent? 12. Có cách nào khác để làm cho Tâm trí trở nên tĩnh lặng không?
NgoàiOther than inquiry, there are no adequate means. Tự vấn ra, không có cách nào khác tương xứng. Nếu dùng các phương pháp khác để quán định Tâm trí, Tâm trí sẽ được quán định, nhưng sự quán định sẽ biến mất khi phương pháp thôi được áp dụng. Bằng cách quán chiếu và quán định hơi thở, Tâm trí sẽ trở nên tĩnh lặng; nhưng Tâm trí chỉ thực sự tĩnh lặng trong khi hơi thở được quán định; và khi hơi thở hồi phục lại trạng thái biến thiên tự nhiên của nó, dưới ảnh hưởng của những ấn tượng còn vương lại trong Tâm trí, Tâm trí lại lang thang rời xa Cội gốc.
Tâm trí và hơi thở đều có cùng cội gốc. Tâm trí được cấu thành bởi ý nghĩ. Ý nghĩ “Ta” là ý nghĩ đầu tiên trong Tâm trí; và đó chính là “Cái Tôi cá nhân”. “Cái Tôi cá nhân” và hơi thở đều bắt nguồn từ Tâm trí.
Vì thế, khi Tâm trí trở nên tĩnh lặng thì hơi thở được quán định và khi hơi thở được quán định Tâm trí trở nên tĩnh lặng. Nhưng khi ngủ sâu, dù Tâm trí tuy có trở lên tĩnh lặng nhưng cơ thể không ngưng thở. Điều này là do Chúa Trời để cơ thể có thể được duy trì và người khác không tưởng rằng đó là xác chết. Trong khi thức và trong Samadhi (thiền định), khi Tâm trí trở nên tĩnh lặng hơi thở được quán định. Hơi thở là dạng thể hiện ngoại thô của Tâm trí. Khi sống, Tâm trí giữ hơi thở trong cơ thể; và khi cơ thể chết đi Tâm trí mang hơi thở đi theo nó. Vì thế, quán chiếu và quán định
[4] hơi thở chỉ là cách giữ cho Tâm trí tĩnh lặng (manonigraha); nó không làm biến mất Tâm trí (manonasa).
Cũng như quán chiếu và quán định hơi thở, thiền theo hình thái của thánh thần, cầu kinh chú, ăn kiêng, ăn chay, vv, chỉ là những phương pháp bổ trợ để giữ Tâm trí tĩnh lặng.
Qua thiền định hay bằng cách đọc các lời kinh chú, Tâm trí trở nên tập-trung-nhất-điểm. Bản chất của Tâm trí là luôn luôn “lang thang”. Như chiếc vòi voi sẽ ngừng đung đưa khi nó giữ dây xích vì nó không còn tìm nắm thứ khác nữa; cũng vậy, khi Tâm trí tập trung vào một cái tên hoặc một hình dáng (duy nhất), nó sẽ chỉ tập trung vào đó mà thôi. Khi Tâm trí khai triển ra dưới dạng vô số những ý nghĩ; mỗi ý nghĩ nổi lên, phát triển nhưng kết cục rồi sẽ yếu đi và tiêu biến. Khi đó Tâm trí trở đạt Trạng thái tập-trung-nhất-điểm và trở nên mạnh mẽ. Một Tâm trí như thế, sẽ rất dễ dàng cho việc Tự vấn.
Trong các quy pháp sống tu Đạo, sử dụng thức ăn sattvic
[5] ở mức độ vừa phải là quan trọng nhất; quan sát nguyên tắc này, chất lượng sattvic của Tâm trí sẽ tăng và điều đó sẽ rất có ích cho sự Tự vấn.
13. Các ý nghĩ tàn dư về ngoại cảnh xuất hiện lớp lớp như sóng biển. Khi nào tất cả những ý nghĩ này biến mất?
As the meditation on the Self rises higher and higher, the thoughts will get destroyed. Thiền định về Cái TA phát triển càng sâu, các ý nghĩ càng tan biến.
14. Is it possible for the residual impressions of objects that come from beginningless time, as it were, to be resolved, and for one to remain as the pure Self? 14. Trong Tự vấn, Cái-TA-thuần-khiết sẽ đạt được khi những ấn tượng được tích tụ và lưu lại từ các hành động trong quá khứ (karma) bị làm tan biến. Sự tan biến này có thể đạt được không?
Without yielding to the doubt "Is it possible, or not?", one should persistently hold on to the meditation on the Self. Đừng phí công nghi ngờ “Có thể hay không thể?”, người tu Đạo cần kiên định thiền định về TA. Ngay cả một tội đồ khủng khiếp nhất cũng không cần lo lắng và than vãn “Ôi! Ta là một kẻ tội đồ, làm sao ta có thể được cứu đỗi?”. Trong Tự vấn, ý nghĩ “Ta là một tội đồ” cần được làm tan biến trước nhất để tập trung vào thiền định về “cái TA”; theo cách đó, thành tựu sẽ là chắc chắn.
Không có hai Tâm trí - một tốt và một xấu; Tâm trí là duy nhất. Chỉ có các ấn tượng còn vương lại là có hai loại - tốt và xấu. Khi Tâm trí chịu ảnh hưởng của ý nghĩ thuận lợi, nó là tốt; khi nó chịu ảnh hưởng của các ý nghĩ không thuận lợi, nó là xấu.
Không được phép để Tâm trí lang thang, cuốn theo đối tượng ngoại cảnh hay bận tâm đến công việc của người khác. Dù người khác có xấu tới đâu, ta cũng không cần ghét bỏ họ. Cả sự khát mong và sự căm ghét đều phải tránh. Cái ta cho đi là cái ta nhận lại. Nếu nhận thức được Sự thật này thì có ai là không cho, có ai là không nhận?
Khi “cái Tôi cá nhân” xuất hiện, vạn vật xuất hiện; khi “cái Tôi cá nhân” trở nên tĩnh lặng, tất cả trở nên tĩnh lặng. Trong chừng mực chúng ta cư xử khiêm thuận, thành quả tốt sẽ tự xác lập. Khi Tâm trí được giữ tĩnh lặng, ta có thể sống ở bất cứ nơi đâu.
15. How long should inquiry be practised? 15. Tự vấn cần phải thực hành trong bao lâu?
As long as there are impressions of objects in the mind, so long the inquiry "Who am I?" Khi nào ý nghĩ về đối tượng ngoại cảnh xuất hiện trong Tâm trí, khi ấy cần sự tự vấn “TA là ai?”.Ý nghĩ cần phải được triệt tiêu ngay tại nơi và tại lúc nó bắt đầu nổi lên thông qua sự Tự vấn. Điều duy nhất cần làm là thiền định về “cái TA” một cách không ngừng nghỉ cho đến khi đạt được cái TA. Điều này ví như việc pháo đài quân địch sẽ bị chiếm phá bằng cách tiêu diệt từng tên địch mỗi khi chúng xông ra.
16. What is the nature of the Self? 16. Bản chất của Cái TA là gì?
Without desire, resolve, or effort, the sun rises; and in its mere presence, the sun-stone emits fire, the lotus blooms, water evaporates; people perform their various functions and then rest. Cái tồn tại trong thực tế chỉ Cái TA mà thôi. Vạn vật, linh hồn đơn độc hay Chúa Trời đều là các dạng thể hiện trong Cái TA, giống như mọi món đồ trang sức đều được làm thành từ chất bạc. Vạn vật, linh hồn đơn độc hay Chúa Trời cùng xuất hiện và cùng biến mất.
Cái TA được chứng nghiệm khi mọi ý nghĩ về “cái Tôi cá nhân” biến mất. Đó gọi là “Sự Tĩnh lặng”. Chính Cái TA là vạn vật, là “cái Tôi cá nhân”, là Chúa trời; tất cả là Siva, Cái TA.
17. Phải chăng vạn vật đều do Chúa trời tạo ra?
What exists in truth is the Self alone. Không vì khao khát, quyết tâm hay nỗ lực (của bản thân nó hay của ai đó), mặt trời vẫn cứ mọc; và dưới ánh sáng của nó, đất đá được nung nóng, sen nở hoa, nước bốc hơi, con người thực hiện vô vàn các hoạt động sống rồi ngơi nghỉ.
Trong sự hiện hữu của từ trường nam châm, chiếc kim chuyển động. Cũng vậy, trong sự Hiện-hữu-duy-nhất của Chúa Trời, vạn vật, dưới sự chi phối bởi ba chức năng vũ trụ hoặc năm dạng hoạt động thần thánh, thực hiện các hoạt động rồi nghỉ ngơi, theo pháp tắc vũ trụ.
Chúa Trời vô tình; không một pháp tắc vũ trụ nào chi phối Ngài; cũng như các hoạt động thế tục không ảnh hưởng tới Mặt trời; cũng như lợi, hại của bốn thành tố khác không ảnh hưởng tới khắp không trung.
[6]
17. Is not everything the work of God?18. Of the devotees, who is the greatest?18. Trong số những người theo Đạo, ai là người vĩ đại nhất?
Người dâng hiến mình cho Cái TA - Đức Chúa Trời - chính là người sùng đạo nhất. Dâng hiến “cái Tôi cá nhân” của nhỏ bé của ta cho “cái TA” vĩ đại nghĩa là giữ Tâm trí luôn luôn hướng đến Cái TA mà không dành chỗ cho sự xuất hiện của bất cứ ý nghĩ nào khác ngoài Cái TA. Hãy đem mọi gánh nặng gửi nơi Chúa, Ngài sẽ tiếp nhận chúng. Bởi sức mạnh tối cao của Chúa Trời khiến vạn vật vận động và thành tựu, tại sao ta không tự gửi ta vào nơi Ngài, mà cứ mãi lo lắng với những ý nghĩ làm gì và làm như thế nào, cái gì không nên làm và bằng cách nào để không làm?
Biết rằng đoàn tàu chịu mọi sức tải, vậy thì tại sao sau khi lên tàu ta còn đặt hành lý của mình lên đầu để rồi cảm thấy không thoải mái mà không đặt nó xuống tàu và cảm thấy dễ chịu hơn?He who gives himself up to the Self that is God is the most excellent devotee.NgưoN
19. What is non-attachment? 19. “Không ràng buộc” là gì?
As thoughts arise, destroying them utterly without any residue in the very place of their origin is non-attachment. Mỗi khi ý nghĩ xuất hiện, làm tiêu tan nó hoàn toàn không vương vấn ngay tại nơi nó bắt nguồn; đó là “Không ràng buộc”. Như người mò ngọc trai tự buộc hòn đá vào thắt lưng rồi lặn xuống đáy biển để lấy những viên ngọc trai, vì thế mỗi chúng ta phải tự trang bị cho mình Tinh thần “Không ràng buộc”, hướng vào nội Tâm để tự vấn và đạt được Viên-ngọc-trai-vô-giá - Cái TA.
20. Phải chăng Chúa Trời và Bậc Thầy có thể đem lại sự Giải thoát?
God and the Guru will only show the way to release; they will not by themselves take the soul to the state of release. Chúa trời và Bậc Thầy chỉ chỉ ra con đường Giải thoát; các Ngài không đưa người tu Đạo tới nơi Đích. Thật ra, Chúa Trời và Bậc Thầy không khác nhau. Như con mồi rơi vào hàm cọp không thể thoát ra, vì thế những người tu Đạo, khi đã lọt trong tầm mắt từ bi của Bậc Thầy, sẽ được Bậc Thầy cứu rỗi và sẽ không còn lạc lối
[7]. Tuy vậy, mỗi người cần có nỗ lực bản thân để theo đuổi con đường do Chúa Trời hoặc Bậc Thầy chỉ dẫn và đạt tới sự Giải thoát. Mỗi người có thể nhận thức được cái TA bằng Con-mắt-Tri-thức của chính mình mà không phải bằng con mắt của ai khác. Rama đâu cần viện tới cái gương để biết anh ta là Rama!
21. Is it necessary for one who longs for release to inquire into the nature of categories (tattvas)? 21. Người tu Đạo có cần khảo cứu các trạng thái vận động của vạn vật
[8] (tattvas)?
Just as one who wants to throw away garbage has no need to analyse it and see what it is, so one who wants to know the Self has no need to count the number of categories or inquire into their characteristics; what he has to do is to reject altogether the categories that hide the Self. Chỉ ai thật sự muốn ném đi những thứ rác rưởi mới không thấy cần phải phân tích nó và xem nó là cái gì; vì thế ai muốn biết Cái TA không cần đếm xem số lượng các trạng thái vận động hoặc tự vấn về các đặc tính của chúng. Điều người tu Đạo cần làm là bỏ đi tất cả những thứ che lấp sự tỏa sáng của cái TA. Vạn vật phải coi như là mơ.
22. Is there no difference between waking and dream? 22. Có gì khác biệt giữa thức và mơ?
Waking is long and a dream short; other than this there is no difference. Just as waking happenings seem real while awake. Trạng thái thức thì dài còn trạng thái mơ thì ngắn; ngoài ra không có sự khác biệt nào hết. Những gì xảy ra khi mơ cũng “thật” như những gì xảy ra khi thức. Khi mơ, Tâm trí “lấy” một cơ thể khác. Ở cả hai trạng thái mơ và thức, ý nghĩ, tên gọi và các hình dạng đều xuất hiện cùng lúc.
23. Is it any use reading books for those who long for release? 23. Người tu Đạo có cần viện tới Kinh sách không?
All the texts say that in order to gain release one should render the mind quiescent; therefore their conclusive teaching is that the mind should be rendered quiescent; once this has been understood there is no need for endless reading. Tất cả các kinh sách đều nói rằng để đạt được giải thoát ta cần giữ Tâm trí tĩnh lặng; vì thế kết luận của lời dạy tựu chung là “Tâm trí cần được giữ tĩnh lặng”. Một khi điều này đã được nhận thức, người tu Đạo không cần đọc mãi nữa.
Để làm cho Tâm trí tĩnh lặng chỉ phải tự vấn bản chất của Ta là gì ?; những điều này làm sao có thể tìm trong Kinh sách? Cái TA chỉ có thể nhận biết bởi Minh Nhãn của mỗi người. Cái TA ở trong năm lớp chân thân
[9], còn Kinh sách thì nằm ngoài. Bởi cái TA phải được tự vấn bằng cách loại bỏ đi năm lớp chân thân nên mãi kiếm tìm cái Ta trong Kinh sách là vô ích. Đến một lúc nào đó người tu Đạo sẽ phải quên hết những gì ta đã học từ Kinh sách.
24. What is happiness? 24. Hạnh phúc là gì?
Happiness is the very nature of the Self; happiness and the Self are not different. Hạnh phúc là bản chất của “TA”; Hạnh phúc và TA không khác nhau. Không có hạnh phúc trong bất cứ khách thể ngoại cảnh nào. Do vô tri, con người ta tưởng rằng Hạnh phúc bắt nguồn từ khách thể ngoại cảnh. Khi Tâm trí hướng ngoại, nó nếm trải khổ đau. Thực ra, khi ham muốn đã được thỏa mãn, Tâm trí quay về cội gốc của nó và hưởng thụ Hạnh phúc - chính là TA.Cũng vậy, trong các trạng thái ngủ sâu, thiền định, ngất đi, hay trạng thái khi có được khách thể đang khao khát hoặc khi khách thể ta không thích biến mất, Tâm trí khi đó hướng nội và cảm nhận hạnh phúc TA thuần khiết.
Vậy nên, Tâm trí chuyển động không ngừng nghỉ, luân phiên rời xa rồi lại quay về với cái TA. Giống như khi ra khỏi bóng mát dễ chịu của cây là vùng nóng mênh mang thiêu đốt, người đi nắng chỉ cảm nhận được sự dễ chịu khi quay về nơi có bóng râm. Kẻ ngu ngốc liên tục rời bóng râm đi ra nắng và rồi trở lại bóng râm. Người khôn ngoan chọn cách ở mãi trong bóng mát. Cũng vậy, Tâm trí của người ngộ Đạo không rời xa Brahman (TA). Tâm trí của kẻ u mê, ngược lại, quay cuồng trong vạn vật để rồi cảm thấy khổ đau, và ở một khoảnh khắc hiếm hoi nào đó trở về Brahman để cảm nhận niềm Hạnh phúc. Trên thực tế, cái gọi là vạn vật chỉ là ý nghĩ. Khi vạn vật biến mất, tức là khi không còn ý nghĩ, Tâm trí sẽ cảm nhận Hạnh phúc; và khi vạn vật xuất hiện, Tâm trí sẽ lại khổ đau.
25.) Minh triết-nội thấu triệt là gì?
Remaining quiet is what is called wisdom-insight. Giữ (Tâm trí) trong Tĩnh lặng được gọi là Minh triết-nội thấu triệt. Giữ trong Tĩnh lặng là để Tâm trí tan hòa trong TA. Thần giao cách cảm, tiên đoán tương lai, dự đoán hiện tại, hồi đoán quá khứ, không phải là Minh triết-nội thấu triệt.
26. What is the relation between desirelessness and wisdom? 26. Quan hệ giữa Vô cầu và Minh triết là gì?
Desirelessness is wisdom. Vô cầu là Minh triết. Hai trạng thái này không khác nhau; chúng là một. Vô cầu là quán niệm Tâm trí không hướng ra khách thể ngoại cảnh. Minh triết là trạng thái tồn tại không-khách-thể. Nói cách khác, không kiếm cầu bất cứ thứ gì ngoài TA là Vô cầu; không rời khỏi TA là Minh triết.
27. What is the difference between inquiry and meditation? 27. Sự khác nhau giữa Tự vấn và Thiền định?
Tự vấn là giữ Tâm trí trong TA. Còn thiền định là quán niệm rằng ta là Brahman, Tồn tại-Ý thức- Hạnh phúc. Inquiry consists in retaining the mind in the Self.VâV
28. What is release? 28. Giải thoát là gì?
Inquiring into the nature of one's self that is in bondage, and realising one's true nature is release. Vấn về bản chất của Cái Tôi của ta là sự bó buộc, và nhận ra được bản chất thực sự của Cái Tôi là sự Giải thoát.
SRI RAMANARPANAM ASTU SRI RAMANARPANAM ASTU
Back to Top
[1] Xuyên suốt phần dịch này, có rất nhiều khái niệm như : I, oneself, Ego; the Self, Siva, God, Atman. Các khái niệm này tương đối phức tạp và dễ gây ra nhầm lẫn trong khi dịch. Để dễ hiểu chúng ta có thể hình dung đơn giản như sau: Khi một người tu Đạo muốn khám phá xem bản chất tồn tại của bản thân anh ta là gì ?!. Câu hỏi “Ta là ai ?” được đặt ra.
Khi câu hỏi “Ta là ai ?!” vẫn đang được tìm kiếm bằng cách “Tự vấn” thì đối với người tu Đạo, khái niệm về ‘bản thân” vẫn bị bó hẹp trong cá thể bao gồm thể xác, tâm trí cá nhân của anh (chị) ta. Nó tương ứng với các khái niệm I, oneself, ego. Và được dịch ra tiếng Việt là Ta (ta), “Cái Tôi cá nhân”.
Khi sự Tự vấn “Ta là ai ?” đạt được kết quả; tức là là khi cái Ta (ta) nhỏ bé của người tu Đạo hiểu rõ bản chất bất biến của Cái Duy Nhất trong sự biến thiên không ngừng của vạn vật. Khi câu hỏi “Ta là ai?” được trả lời, mọi câu hỏi khác đều biến mất bởi vì mọi nghi vấn đã được làm sáng tỏ. Khi đó cái Ta nhỏ bé cá nhân sẽ hòa vào cái TA bất biến, vĩ đại trường tồn (the Self, Siva, Atman, God…).

[2] Nguyên văn tiếng Anh của từ này là “Heart”. Theo triết học Ấn Độ, đây chính là Trái tim tinh thần - nơi cư ngụ của Tâm trí; vì vậy ta có thể gọi là Tâm. Trái tim tinh thần này khác với trái tim cơ thể. Tim tinh thần được xem là nằm ở bên Ngực phải; Tim cơ thể nằm ở bên ngực trái. Một số trường phái Yoga cho rằng có thể thực hiện Thiền định một cách hiệu quả hơn bằng cách tập trung suy nghĩ vào ngực phải để có thể đưa Tâm trí trở về với Cội gốc của nó - Tâm. (?!)
[3] Hành động không với động cơ của “Cái Tôi cá nhân” chính là một trong những nguyên tắc tối cao của Yoga. Khi đó, người hành động, hành động, kết quả hành động được xuất hiện như là tự nhiên và theo lẽ Tự nhiên. Điều này đã được trình bày rất đầy đủ trong Bhagavad Gita. Siva (Shiva) là TA-vĩnh-hằng và duy nhất.
[4] Nghĩa tiếng Việt của từ “control” có thể dịch là điều khiển. Tuy nhiên, nếu dùng từ như vậy sẽ mang đến cho ta cách hiểu về một sự áp đặt của ý chí lên hơi thở. Trên thực tế, đây là quá trình : 1. quán chiếu - tức là theo dõi và nhận biết các đặc điểm hơi thở; để rồi 2. quán định - tức là trên cơ sở các nhận biết đó, tiến hành điều chỉnh, cải tạo hơi thở để làm cho Tâm trí tĩnh tại. Yoga cho rằng Hơi thở là cầu nối giữa Tâm trí và Cơ thể.
[5] Thức ăn sattvic là những thức ăn ít đạm dễ tiêu hóa, thức ăn không gây kích thích tâm lý như các loại ngũ cốc, rau, đậu, sữa… Đây có lẽ là lý do cơ bản nhất của việc thực hành ăn chay đối với nhưng người tu Đạo.
[6] Câu này có lẽ chính là cách hiểu đúng nhất cho một câu trong Đạo Đức Kinh của Trung quốc “Trời Đất vô tình, coi vạn vật như cỏ rác”.
[7] Trong Yoga, có câu nói rằng : Khi kẻ tu Đạo đã sẵn sàng thì Sư phụ sẽ tự xuất hiện.
[8] Triết học Ấn Độ quan niệm vạn vật vận động theo cơ chế 3 trạng thái Sattwa, Rajas and Tamaa, tương tự như thuyết Âm Dương của Trung quốc; trong đó : Râjas - dương, tích cực, Tamaa - âm, tiêu cực, Sattwa - trạng thái cân bằng. Chương XIV - Three gunas trong tác phẩm Bhagavad Gita giải thích một cách rõ ràng về sự vận động của vạn vật theo 3 trạng thái này.
[9] Năm lớp chân thân (tính từ ngoài vào trong) theo quan niệm của triết học Ấn Độ đó là: cơ thể, prana- năng lượng sống, tâm trí, trí tuệ, hạnh phúc tối thượng. Đó chỉ là một khái niệm mang tính tương đối; thực chất, không có sự phân biệt rõ ràng giữa các thành phần.

2 nhận xét: